14/2014/TT-BKHCN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
PHIẾU THÔNG TIN
NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐANG TIẾN HÀNH SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1 |
Tên nhiệm vụ: Cơ sở khoa học nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam hiện nay |
2 |
|
3 |
|
4 |
Mã số nhiệm vụ (nếu có): ĐT.05/22 |
5 |
Tên tổ chức chủ trì: Viện khoa học tổ chức nhà nước
Họ và tên thủ trưởng:
Địa chỉ:
Tỉnh/thành phố:
Điện thoại:
Fax:
Website:
|
6 |
Cơ quan chủ quản: Bộ Nội vụ |
7 |
Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Hoàng Thị Lan Hương
Họ và tên:
Giới tính:
Trình độ học vấn:
Chức danh khoa học:
Chức vụ:
Điện thoại:
Fax:
Email:
|
8 |
Danh sách cá nhân tham gia nhiệm vụ: Chủ nhiệm đề tài. ThS. Hoàng Thị Lan Hương, Phó Trưởng phòng, Phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.1. ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, Trưởng phòng, Phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; 2. TS. Nguyễn Khánh Ly, Giảng viên, Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Nội vụ; 3. TS. Đoàn Văn Dũng, Trưởng phòng Phòng Tổng hợp, Văn phòng, Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Nội vụ; 4. ThS. Nguyễn Thị Huế, Chuyên viên chính, Phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; 5. ThS. Vi Tiến Cường, Chuyên viên, Văn phòng Bộ Nội vụ; 6. ThS. Hoàng Thị Kim Thoa, Chuyên viên, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam - Thư ký đề tài. |
9 |
Mục tiêu nghiên cứu: |
10 |
Tóm tắt nội dung nghiên cứu chính: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển của đơn vị SNCL nói chung và chất lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC nói riêng của đơn vị SNCL phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào năng lực quản trị với vai trò là nguồn năng lực nội sinh để đơn vị phát triển. Thực tế cho thấy, trong cùng hoàn cảnh và với một cơ chế quản lý như nhau nhưng một tổ chức nói chung, đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) nói riêng có năng lực quản trị tốt hơn thì khả năng đạt kết quả tốt sẽ cao hơn. Do vậy nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ SNC, bên cạnh nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL. Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ cho các đơn vị SNC về phạm vi hoạt động, tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính gắn với cơ chế đánh giá độc lập”. Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiệm vụ, giải pháp “nâng cao năng lực quản trị của các đơn vị SNCL” Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số19-NQ/TW đề ra các nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện nội dung “Nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL”. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương có nhiệm vụ: Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL thuộc phạm vi quản lý, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng các dịch vụ SNC, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thời gian qua, việc triển khai thực hiện giải pháp nâng cao năng lực quản trị các đơn vị SNCL về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và nhân lực, tài chính, tài sản công đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn còn những hạn chế, vướng mắc, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình mới. Một số nhiệm vụ, giải pháp được đề ra như: “Có chính sách thu hút nhân tài, thu hút đội ngũ viên chức có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi vào làm việc trong đơn vị SNCL” hoặc “đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị SNCL” chưa được tổ chức thực hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế quản lý các đơn vị SNCL hiện nay đang từng bước đổi mới theo hướng khuyến khích cạnh trạng về chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC giữa các đơn vị SNCL cũng như giữa đơn vị SNCL với các đơn ngoài công lập. Và các đơn vị SNCL có thể bị giải thể trong các trường hợp 03 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ; hoạt động không có hiệu quả. Do đó việc nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL càng trở thành bức thiết để duy trì và phát triển đơn vị. Hơn nữa, trong bối cảnh cách mạng Công nghiệp 4.0, nhất là chuyển đổi số, đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc nâng cao năng lực quản trị của các đơn vị SNCL. Chuyển đổi số không phải đơn thuần thay đổi cách thực hiện công việc từ thủ công truyền thống (ghi chép trong sổ sách, họp trực tiếp,...) sang vận dụng công nghệ để giảm thiểu sức người, mà đó là một sự thay đổi về văn hóa của các đơn vị SNCL, đòi hỏi các đơn vị SNCL phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới và có thể chấp nhận các thất bại. Những lợi ích của chuyển đổi số đối với đơn vị SNCL là cắt giảm chi phí vận hành, tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt kịp thời, tối ưu hóa được năng suất làm việc của viên chức, người lao động... từ đó tăng chất lượng, hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của đơn vị SNCL. Tuy nhiên chuyển đổi số cũng đặt ra nhiều thách thức trên nhiều phương diện đối với quản trị của đơn vị SNCL. Để nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL đáp ứng yêu cầu mới, đòi hỏi tiếp tục đầu tư nghiên cứu về mặt lý luận, làm rõ các khái niệm, nội hàm, nguyên tắc, phương pháp quản trị cũng như phải rà soát, đánh giá thực trạng năng lực quản trị của các đơn vị SNCL, chỉ ra ra những hạn chế, yếu kém, những khó khăn, vướng mắc về các mặt: thực hiện nhiệm vụ, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật tổ chức, nhân lực….Từ đó tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL trong điều kiện đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị SNCL. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Cơ sở khoa học nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam” là cấp thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 2.2.1. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung quản trị và năng lực quản trị 2.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị SNCL 2.2.3. Các bài viết trên tạp chí đề cập đến đổi mới tổ chức, hoat động quản lý của đơn vị SNCL 2.2.4. Khoảng trống nghiên cứuCác công trình, tài liệu nghiên cứu nói trên tập trung đánh giá thực trạng và phân tích làm rõ yêu cầu, đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của đơn vị SNCL, nhất là trong bối cảnh tự chủ tài chính. Một số ít công trình đã đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản nhất về quản trị trong các tổ chức nói chung như vai trò, chức năng, nguyên tắc, phương pháp… quản trị tuy nhiên những nội dung này tập trung vào nội dung quản trị của các doanh nghiệp, công ty khu vực tư nhân. Đối với khu vực công nói chung và đơn vị SNCL nói riêng những nội dung về quản trị, năng lực quản trị ít được đề cập. Mặt khác những công trình nêu trên được thực hiện trước khi Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ về tự chủ tài chính của đơn vị SNCL được ban hành. Mặc dù những quy định mới của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP bước đầu tạo thuận lợi cho các hoạt động của đơn vị SNC, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC, nhưng quá trình thực hiện các quy định của Nghị định này cũng đã phát sinh những vướng mắc, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Tổng quan các nghiên cứu đã có liên quan đến năng lực quản trị của đơn vị SNCL; - Hệ thống hóa và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực quản trị của đơn vị SNCL; - Đánh giá thực trạng năng lực quản trị của đơn vị SNCL ở Việt Nam hiện nay; - Đề xuất định hướng và các giải pháp nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Năng lực quản trị của đơn vị SNCL ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực quản trị của đơn vị SNCL theo nội dung quản trị, gồm: năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ; năng lực quản trị tổ chức bộ máy, năng lực quản trị nhân sự, năng lực quản trị tài chính và tài sản công. - Phạm vi không gian: Năng lực quản trị của các đơn vị SNCL trong lĩnh vực y tế, giáo dục, dạy nghề, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin. - Phạm vi thời gian: Đề tài khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực quản trị đơn vị SNCL giai đoạn 2018-2022 và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL giai đoạn 2023-2030. 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cách tiếp cận Đề tài thực hiện cách tiếp cận liên ngành; tiếp cận dự báo và tiếp cận quản lý nhà nước đối với đơn vị SNCL và quản trị của đơn vị SNCL. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như; phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: So sánh giữa lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn quản trị của đơn vị SNCL. - Phương pháp điều tra xã hội học với 400 phiếu hỏi dành cho các đối tượng: 150 viên chức lãnh đạo, quản lý các đơn vị SNCL và 200 viên chức các đơn vị SNCL thuộc Bộ và UBND cấp tỉnh; 50 cán bộ, công chức các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực có liên quan ở trung ương (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ) và địa phương (TP. Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Hà Nội). Thời gian điều tra: từ tháng 5-7/2022 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Kết quả của đề tài hệ thống hoá và phân tích làm phong phú hơn một số vấn đề lý luận về năng lực quản trị đơn vị SNCL. - Kết quả nghiên cứu của Đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa phục vụ xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến quản trị của đơn vị SNCL cũng như các đơn vị SNCL vận dụng đổi mới quản trị. - Là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, giảng viên tìm hiểu, nghiên cứu về quản trị của đơn vị SNCL. 7. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm có 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập; Chương 2. Cơ sở thực tiễn nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập; Chương 3. Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.1. Khái quát về đơn vị sự nghiệp công lập và quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm đơn vị sự nghiệp công lập a) Khái niệm đơn vị SNCL Đơn vị SNCL, theo quan niệm chung nhất là tổ chức do nhà nước lập ra, thay mặt nhà nước cung cấp dịch vụ SNC cho xã hội hoặc phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Viên chức năm 2010, do đặc thù của hệ thống chính trị, đơn vị SNCL được quan niệm “là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. b) Đặc điểm của đơn vị SNCL Hệ thống các đơn vị SNCL có mục tiêu cung cấp những dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm bảo đảm nhằm phục vụ người dân trong lĩnh vực y tế, giáo dục, dạy nghề, khoa học, văn hoá, thể dục, thể thao, thông tin…; đặc biệt là bảo đảm cung cấp các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục tại miền núi, biên giới, hải đảo vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị SNCL phải bảo đảm đúng điều kiện, trình tự, thủ tục và thẩm quyền được pháp luật quy định; một đơn vị SNCL có thể cung ứng nhiều dịch vụ SNC cùng loại. Hệ thống đơn vị SNCL ở nước ta gồm các đơn vị SNCL với những đặc điểm, tính chất, quy mô khác nhau; hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ SNC ở mọi vùng, miền của cả nước; trực thuộc quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cấp huyện. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động, các đơn vị SNCL được Nhà nước bảo đảm hoặc hỗ trợ về kinh phí và tài sản theo các mức độ và hình thức khác nhau để hoạt động, thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn và được thực hiện các khoản thu, chi theo quy định của Nhà nước. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các đơn vị SNCL, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính phù hợp để các đơn vị này thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Các đơn vị SNCL được thành lập có mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ cụ thể và có thể được điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hoặc có thể bị giải thể trong các trường hợp: không còn chức năng, nhiệm vụ; 03 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ; hoạt động không có hiệu quả. Người làm việc trong hệ thống đơn vị SNCL, theo quy định của pháp luật, chủ yếu là viên chức hoạt động nghề nghiệp, cung cấp các dịch vụ SNC cho người dân và xã hội mà không thực hiện chức năng quản lý nhà nước hoặc chức năng công quyền. … Đơn vị SNCL được giao quyền tự chủ thực hiện các nội dung quản lý; người đứng đầu đơn vị SNCL chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về tình hình quản lý, sử dụng viên chức tại đơn vị. Đối với đơn vị SNCL chưa được giao quyền tự chủ, cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị SNCL thực hiện quản lý viên chức hoặc phân cấp thực hiện các nội dung quản lý được quy định. 1.1.2. Khái niệm và nội dung quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập a) Khái niệm quản trị đơn vị SNCL Khái niệm “quản trị của đơn vị SNCL” được đề ra tại Nghị quyết số 19/NQ-TW 6 (Khóa XII), ngày 25/10/2017 như một nhiệm vụ, gải pháp là “Nâng cao năng lực quản trị đơn vị của SNCL” để thực hiện mục tiêu tổng quát “đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị SNCL, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ SNC; cung ứng dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao... Quản trị của đơn vị SNCL được tiếp cận trên các phương diện: - Các nội dung quản trị: thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, hoạt động; tổ chức nhân lực; tài chính tài sản; - Quản trị theo quá trình: lập kế hoạch, chỉ đạo điều hành, kiểm tra giám sát các hoạt động của đơn vị SNCL. - Quản trị theo kết quả đạt được các mục tiêu của tổ chức trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của đơn vị SNCL. - Quản trị trong khuôn khổ các quy định pháp luật đối với đơn vị SNCL theo từng ngành, lĩnh vực; đồng thời chịu sự tác động của các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp đối với đơn vị SNCL; có sự phân cấp, phân quyền trong việc ra quyết định quản trị và được thực hiện thông qua các bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức như phòng, ban; - Quản trị trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL; - Quản trị trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ sự nghiệp công; - Quản trị dưới sự tác động của nhiều yếu tố liên quan như: truyền thống quản trị, mức độ tự chủ, qui mô, cũng như đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của lĩnh vực dịch vụ công, các yếu tố xã hội. b) Nội dung quản trị của đơn vị SNCL Với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính hiện nay, các nội dung quản trị đơn vị SNCL bao gồm: Quản trị thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quản trị nhân sự, quản trị tài chính và tài sản. Năng lực quản trị của đơn vị SNCL được hiểu là khả năng kết hợp, sử dụng tối ưu các nguồn lực thông qua một hệ thống các cơ chế, cơ cấu tổ chức, quy trình để đạt được mục tiêu đã đề ra trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của đơn vị SNCL một cách hiệu quả. Theo đó, có thể tiếp cận năng lực quản trị của đơn vị SNCL, gồm: (1) Quản trị thực hiện nhiệm vụ: là một quá trình gồm các bước từ xác định mục tiêu, xác định các nội dung công việc để đạt mục tiêu đề ra, lập kế hoạch công việc, đến theo dõi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện nhằm đảm bảo thực hiện thành công các hoạt động đề ra, đóng góp vào mục tiêu chung được xác định theo chức năng và nhiệm vụ của đơn vị SNCL. (2) Quản trị tổ chức bộ máy: Việc thành lập cơ cấu tổ chức bộ máy của đơn vị SNCL phải tuân thủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan có thẩm quyền và đồng thời là căn cứ để xác định mối quan hệ giữa các bộ phận của đơn vị nhằm bảo đảm sự hoạt động thống suốt của của đơn vị SNCL. (3) Quản trị nguồn nhân lực: là việc khai thác, quản lý nguồn nhân lực của đơn vị nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực để tăng năng suất lao động và nâng cao tính hiệu quả của đơn vị, đồng thời tạo điều kiện cho viên chức phát huy tối đa các năng lực cá nhân, được kích thích, động viên nhiều nhất tại nơi làm việc. (4) Quản trị tài chính và tài sản: là quá trình áp dụng các công cụ, phương pháp quản trị và hình thức tác động vào quy trình tài chính của đơn vị nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ và nâng cao đời sống cho người lao động, thúc đẩy đơn vị phát triển bền vững. Vì vậy, quản trị tài chính và tài sản đóng vai trò hết sức quan trọng, là hoạt động cần thiết đối với các đơn vị SNCL. 1.1.3. Các chủ thể quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập Chủ thể quản trị trực tiếp đơn vị SNCL được pháp luật quy định gồm: Hội đồng quản lý (Hội đồng trường đối với các cơ sở giáo dục đại học); tổ chức Đảng trong đơn vị SNCL; Ban Giám đốc (Ban Giám hiệu đối với cơ sở giáo dục đại học), Giám đốc hoặc Hiệu trưởng hay Viện trưởng, Trưởng ban...viên chức quản lý, các tổ chức đoàn thể trong đơn vị SNCL, đội ngũ viên chức. 1.1.4. Các phương thức quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập Phương thức quản trị của đơn vị SNCL được hiểu là cách thức tổ chức và thực hiện các hoạt động của đơn vị SNCL trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và các nguồn lực được phân bổ nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Căn cứ vào nguồn lực được phân bổ để xác định các phương thức quản trị đơn vị SNCL. Theo đó, có: 1) Phương thức quản trị của các đơn vị SNCL sử dụng NSNN. Đó là các đơn vị SNCL cung ứng các dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu theo quy định của pháp luật chuyên ngành và pháp luật về NSNN; 2) Phương thức quản trị của đơn vị SNCL không sử dụng NSNN gồm các đơn vị cung ứng các dịch vụ SNC không thuộc danh mục dịch vụ SNC sử dụng NSNN theo quy định và các đơn vị SNC hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh, liên kết phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của đơn vị để đáp ứng nhu cầu của xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan. Đối với đơn vị SNCL sử dụng NSNN lại căn cứ vào mức độ tự chủ tài chính để có phương thức quản trị đơn vị phù hợp theo nguyên tắc mức độ tự chủ tài chính càng cao thì được tự chủ về quản trị nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực. Theo đó, các đơn vị SNCL được phân thành 4 nhóm là: + Đơn vị SNC tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; + Đơn vị SNC tự bảo đảm chi thường xuyên; + Đơn vị SNC tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; + Đơn vị SNC do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên. a) Phương thức quản trị của đơn vị SNCL tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư. Các yếu tố cấu thành quản trị của đơn vị SNCL bảo đảm tính tự chủ ở mức cao, đơn vị có thẩm quyền quyết định nhiều nội dung về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. b) Phương thức quản trị của các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên c) Phương thức quản trị của các đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên d) Phương thức quản trị của đơn vị SNCL hoạt động như doanh nghiệp. đ) Phương thức quản trị của đơn vị SNC không sử dụng NSNN. 1.2. Năng lực quản trị của đơn vị SNCL 1.2.1. Các khái niệm liên quan a) Khái niệm năng lực: Năng lực của một tổ chức là tổng hòa của các kỹ năng, khả năng và chuyên môn mà tổ chức đó có để có thể thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức. b) Khái niệm năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập Năng lực quản trị của đơn vị SNCL được hiểu là khả năng kết hợp, sử dụng tối ưu các nguồn lực thông qua một hệ thống các cơ chế, cơ cấu tổ chức, quy trình để đạt được mục tiêu đã đề ra trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của đơn vị SNCL một cách hiệu quả. Theo đó, có thể tiếp cận năng lực quản trị của đơn vị SNCL, gồm: Năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ được phản ánh thông qua kết quả công việc và tác động hay kết quả cuối cùng mà công việc đó tạo ra; Năng lực quản trị tổ chức bộ máy là khả năng tổ chức và vận hành bộ máy quản lý, điều hành đơn vị SNCL; Năng lực quản trị nhân lực thể hiện qua số lượng biên chế, cơ cấu, chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; Năng lực quản trị tài chính, tài sản công của các đơn vị SNCL thể hiện qua quá trình huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài sản của đơn vị. 1.2.2. Đặc điểm và vai trò của năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập a) Đặc điểm của năng lực quản trị của đơn vị SNCL - Tùy theo mục đích nghiên cứu, năng lực quản trị của đơn vị SNCL được cách tiếp cận theo nhiều góc độ và các yếu tố cấu thành khác nhau: + Theo chức năng quản trị, bao gồm các yếu tố: năng lực hoạch định, năng lực tổ chức, năng lực điều khiển và năng lực kiểm soát; + Theo nội dung quản trị, bao gồm các bộ phận: năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ; năng lực quản trị tổ chức bộ máy, năng lực quản trị nhân sự, năng lực quản trị tài chính và tài sản công; + Theo khía cạnh kỹ thuật, bao gồm: năng lực lãnh đạo, năng lực của cơ cấu tổ chức quản trị, năng lực thiết kế, vận hành và kiểm soát các quy trình quản trị; + Theo chủ thể quản trị, bao gồm: năng lực của các chủ thể quản lý nhà nước; năng lực của các cơ quan chủ quản; năng năng lực của người đứng đầu đơn vị; năng lực của viên chức lãnh đạo, quản lý; năng lực hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ viên chức. - Năng lực quản trị của đơn vị SNCL bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau trong và ngoài đơn vị SNCL; tính chất, đặc điểm của từng lĩnh vực dịch vụ SNC và từng loại hình đơn vị SNCL; năng lực của người đứng đầu cũng như phẩm chất, năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ngũ viên chức trong đơn vị. - Năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ của đơn vị SNCL được thể hiện thông qua kết quả cung ứng dịch vụ của đơn vị SNCL về số lượng, chất lượng, chi phí và thời gian thực hiện dịch vụ SNC. - Năng lực quản trị tổ chức bộ máy thể hiện khả năng bố trí, sắp xếp, cải tổ cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của đơn vị SNCL (số lượng, cơ cấu tổ chức của các phòng, ban trong đơn vị SNCL;…) nhất là năng lực của Hội đồng quản lý trong tổ chức và hoạt động của đơn vị SNCL nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đặt ra. - Năng lực quản trị nhân lực thể hiện qua việc thu hút, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý viên chức, đáp ứng nhiệm vụ của đơn vị - Năng lực quản trị tài chính, tài sản công của các đơn vị SNCL thể hiện qua quá trình huy động các nguồn lực tài chính; qua quá trình phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính; qua khả năng kiểm soát chi của đơn vị trên mối quan hệ hiệu quả giữa chi phí – kết quả; đặc biệt là việc thực hiện các nguyên tắc về trách nhiệm giải trình, về việc thực hiện, công khai, minh bạch trong quản trị tài chính và tài sản công. b) Vai trò của năng lực quản trị của đơn vị SNCL Năng lực quản trị là thước đo đánh giá tổ chức có khả năng thực hiện các mục tiêu, yêu cầu theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Năng lực quản trị của đơn vị SNCL có thể đưa ra các chiến lược phát triển một cách bền vững hoặc tạo ra sự khác biệt hay lợi thế cạnh tranh của đơn vị; là điều kiện quan trọng để đơn vị SNCL sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có; quyết định chất lượng, hiệu quả dịch vụ SNC của đơn vị; tạo khả năng xác định được kịp thời, chính xác những thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức với bản thân đơn vị SNCL, từ đó đưa ra các giải pháp hiệu quả để phát triển. 1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực quản trị của đơn vị SNCL a) Các tiêu chí đánh giá chung về năng lực quản trị của đơn vị SNCL, gồm: - Tiêu chí kết quả thực hiện vai trò, mục tiêu của đơn vị được pháp luật hoặc cấp có thẩm quyền quy định; mức độ đạt được các mục tiêu của đơn vị SNCL cũng như mức độ tương thích giữa kết quả đạt được với mục tiêu chiến lược đã xác định; - Tiêu chí kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ cung ứng dịch vụ SNC hoặc phục vụ quản lý nhà nước của đơn vị SNCL trên các mặt: số lượng, chất lượng, chi phí dịch vụ và tính kịp thời của việc cung ứng dịch vụ SNC; - Tiêu chí mức độ hài lòng của người dân, tổ chức về những dịch vụ SNC do đơn vị SNCL cung ứng, những hiệu ích mang lại về kinh tế, xã hội và phát triển trí lực, thể lực, tâm lực của người dân hoặc phục vụ quản lý nhà nước; - Tiêu chí hiệu quả sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật và thông tin) trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị SNCL; - Tiêu chí năng động, sáng tạo trong hoạt động của đơn vị SNCL - Tiêu chí về khả năng thích ứng với sự thay đổi về nhu cầu ngày càng cao của người dân đối với các dịch vụ SNC thuộc phạm vi phục vụ của đơn vị SNCL b) Các tiêu chí đánh giá năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ c) Tiêu chí đánh giá năng lực quản trị tổ chức bộ máy d) Tiêu chí đánh giá năng lực quản trị nhân lực đ) Tiêu chí đánh giá năng lực quản trị tài chính, tài sản công 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị của đơn vị SNCL 1.3.1. Thể chế quản lý đơn vị SNCL 1.3.2. Đặc điểm, tính chất lĩnh vực cung ứng dịch vụ công của đơn vị SNCL 1.3.3. Quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động của đơn vị SNCL 1.3.4. Mức độ tự chủ tài chính của đơn vị SNCL 1.3.5. Trình độ ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học - công nghệ CHƯƠNG 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 2.1. Các quy định Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập 2.1.1. Các quy định của Đảng 2.1.2. Các quy định của Nhà nước - Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 có hiệu lực từ 01/07/2019; Luật Đầu tư công 2019 có hiệu lực từ 01/01/2020; Luật Giáo dục 2019 có hiệu lực từ 01/07/2020; và mới đây nhất là Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 có hiệu lực từ 01/07/2020. - Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị SNCL; Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL; Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị SNCL, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL. Các quy định của pháp luật tạo điều kiện để các đơn vị SNCL từng bước khẳng định được năng lực của mình, cụ thể: - Tăng cường phân cấp, phân định rõ hơn thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương trong quản lý đơn vị SNCL. - Đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các đơn vị SNCL cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp DVSNC. - Quy định về các tiêu chí, điều kiện thành lập, sáp nhập, giải thể đơn vị SNCL làm cơ sở cho việc sắp xếp hệ thống các đơn vị SNCL cả về tổ chức bộ máy và nhân lực. - Chính sách ưu đãi, khuyến khích thực hiện xã hội hóa cung cấp dịch vụ SNC (đất đai, thuế, tín dụng,...) 2.1.3. Nhận xét chung các quy định về năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập Hệ thống các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động đơn vị SNCL đã từng bước được hoàn thiện hơn, thể chế hóa các yếu tố cấu thành năng lực quản trị của đơn vị SNCL. Tuy nhiên, việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực SNC còn chậm và chưa đồng bộ, chưa phù hợp với bối cảnh, yêu cầu mới. Ví dụ theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, việc giao quyền tự chủ tài chính cho cơ sở giáo dục đại học do cơ quan quản lý cấp trên phê duyệt trên cơ sở thẩm định phương án tự chủ tài chính của ĐVSNCL xây dựng, đề xuất, báo cáo. Tuy nhiên, Luật Giáo dục đại học quy định quyền tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục do Hội đồng trường quyết định. Hội đồng trường được xem như là cơ quan đại diện cho chủ sở hữu, gần như thay mặt cho Nhà nước. Về quản trị thực hiện nhiệm vụ - Các tiêu chí đánh giá đơn vị SNCL chưa rõ, chưa cụ thể, đặc biệt là khâu tự đánh giá. Đa số các đơn vị đều tự đánh giá là hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Về tổ chức bộ máy quản trị - Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Luật Giáo dục đại học đã trao quyền cho Hội đồng trường, Hội đồng đại học của cơ sở giáo dục đại học tự quyết định việc sử dụng nguồn tài chính là nguồn thu hợp pháp ngoài NSNN trong khi đó thực tế lại bị ràng buộc bởi quy định tiến hành đấu thầu tại Luật Đấu thầu 2013 (chưa sửa) như dự án sử dụng vốn nhà nước thông thường. Thiết chế Hội đồng trường trong thời gian vừa qua chủ yếu mang tính hình thức. - Trong lĩnh vực y tế: Hành lang pháp lý về cơ chế tự chủ trong lĩnh vực y tế, trong đó có tự chủ đối với bệnh viện công lập còn chưa đầy đủ; thiếu quy định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, liên doanh, liên kết, về việc sử dụng thiết bị y tế kỹ thuật cao tại các cơ sở y tế công lập. - Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Việc tổ chức lại các đơn vị SNCL trong lĩnh vực này không thống nhất; gây khó khăn trong quản lý chuyên ngành. Về quản trị nguồn nhân lực Cơ chế tiền lương và thu nhập tăng thêm được quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP, giá dịch vụ phải tính đúng, tính đủ các chi phí nhưng các ĐVSN vẫn phải dành một tỷ lệ % đáng kể số thu để lại để tạo nguồn cải cách tiền lương do vậy sẽ ảnh hưởng tới nguồn để chi trả thu nhập tăng thêm. Về quản trị tài chính và tài sản - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động của đơn vị SNCL, khai thác nguồn lực, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, đặc biệt là cách phân loại đơn vị SNCL, xác định giá trị tài sản để giao tài sản cho đơn vị quản lý. - Trong lĩnh vực Khoa học và công nghệ: + Một số chính sách về ưu đãi thuế, chính sách sử dụng tài sản, chính sách liên quan đến trích lập quỹ bổ sung thu nhập, cải cách tiền lương… chưa tạo được động lực chuyển đổi cho tổ chức KH&CN, gây lãng phí nguồn lực, cũng như động lực đối với người lao động tại các tổ chức đó. - Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch: Theo báo cáo từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện chỉ có 15/74 đơn vị SNCL thuộc Bộ thực hiện tự chủ 30 - 100% kinh phí hoạt động. - Trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và khác Chế độ tài chính chưa thật sự phù hợp, văn bản quy định hướng dẫn còn chưa thật cụ thể, dẫn đến các cơ quan quản lý hiểu khác nhau trong việc xác định tiền lương tăng thêm trước hay sau tính chênh lệch thu chi, dẫn đến không công bằng giữa các đơn vị. 2.2. Thực trạng năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập 2.2.1. Thực trạng quản trị thực hiện chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công a) Hoạt động lập kế hoạch Các đơn vị SNCL đều xây dựng được phương hướng, mục tiêu, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ. Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ lớn ý kiến cho rằng đơn vị SNCL đều xây dựng và ban hành kế hoạch phát triển với tỷ lệ 68,1 và 65,1%; có 64,8% ý kiến cho rằng các đơn vị SNCL đã xác định rõ mục tiêu, kế hoạch phát triển của đơn vị. b) Hoạt động chỉ đạo, điều hành Hoạt động chỉ đạo, điều hành có những đổi mới quan trọng nhằm thích ứng với yêu cầu đặt ra đối với đơn vị SNCL trong giai đoạn hiện nay. Các hoạt động chỉ đạo, điều hành góp phần quản lý và khai thác có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. 2.2.2. Thực trạng năng lực quản trị bộ máy a) Bộ máy quản lý, điều hành (lãnh đạo đơn vị, hội đồng quản lý) Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị SNCL để tinh gọn đầu mối, giảm biên chế, nâng cao hiệu quả hoạt động. b) Tổ chức các phòng, ban trong đơn vị Các đơn vị SNCL được tổ chức lại các đơn vị cấu thành theo hướng tinh gọn, đa dạng hóa về nhiệm vụ, một nhiệm vụ chỉ giao một đơn vị, một đơn vị thực hiện nhiều nhiệm vụ. Tuy nhiên, quá trình sắp xếp lại đơn vị SNCL gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí vị trí viên chức lãnh đạo, quản lý. Sự xáo trộn về tổ chức cũng ảnh hưởng nhất định đến tâm lý viên chức, người lao động. Các đơn vị cấu thành đơn vị SNCL cần có thời gian để tổ chức và hoạt động thực sự hiệu quả. 2.2.3. Thực trạng năng lực quản trị nhân lực a) Cơ chế quản lý nhân lực Nhìn chung, biên chế sự nghiệp đã được quản lý chặt chẽ và thực hiện đúng chủ trương của Đảng và quy định của pháp luật. Các bộ, ngành, địa phương đã tự cân đối, sắp xếp trong tổng số biên chế đã được cấp có thẩm quyền giao để bố trí đối với các tổ chức, đơn vị SNCL thành lập mới hoặc được bổ sung nhiệm vụ mới, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Số lượng các đơn vị SNCL tự bảo đảm về tài chính tăng lên, theo đó, số người hưởng lương từ ngân sách nhà nước đã giảm xuống. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương không thực hiện đúng quy định; có tình trạng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình HĐND cùng cấp phê duyệt tổng số người làm việc trong đơn vị SNCL hằng năm chưa có ý kiến thẩm định của cơ quan có thẩm quyền dẫn đến tăng số lượng người làm việc trong đơn vị SNCL. Công tác thống kê, báo cáo về quản lý, sử dụng biên chế công chức, số lượng người làm trong đơn vị SNCL tại một số bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời, chưa được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định tại các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. b) Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của đơn vị Tính đến 31/12/2021 kết quả sắp xếp tổ chức lại các đơn vị SNCL của các Bộ ngành, địa phương trong cả nước đã giảm được 9.951 đơn vị, giảm 17,15% so với năm 2016, đạt được mục tiêu của Nghị quyết đến năm 2021 tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị SNCL. Một số ngành, lĩnh vực đã tinh gọn đầu mối, giảm mạnh số lượng ĐVSNCL như: giáo dục nghề nghiệp (22,17%), y tế (28,77%), thông tin và truyền thông (37,73%), văn hóa, thể thao và du lịch (26,23%). c) Vị trí việc làm và các nội dung liên quan Việc xây dựng và thực hiện Đề án vị trí việc làm là một trong những cơ sở quan trọng để thực hiện tuyển dụng, bố trí, sắp xếp đúng người, đúng việc, tránh “phình” bộ máy, tăng biên chế. Tuy nhiên, thực tế xây dựng vị trí việc làm tại các bộ, ngành, địa phương cho thấy còn chậm và gặp nhiều vướng mắc. d) Chính sách đãi ngộ, tạo động lực làm việc 2.2.4. Thực trạng năng lực quản trị tài chính, tài sản công a) Quản trị tài chính, cơ sở vật chất - Về quản lý, sử dụng nguồn tài chính của đơn vị, đa số các báo cáo đều cho rằng đơn vị đã thực hiện việc chi- thu theo đúng quy định; xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị làm cơ sở thực hiện công khai, minh bạch trong chi tiêu tài chính. Hàng năm đơn vị thực hiện công khai, minh bạch các nguồn thu- chi của đơn vị; lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của đơn vị; hi tiêu đúng chế độ, chính sách, thực hành tiết kiệm chi thường xuyên và bảo đảm thu nhập tăng thêm cho viên chức và người lao động. b) Mức độ tự chủ về tài chính Tính đến 31/12/2021, trong tổng số 47.984 đơn vị SNCL có: (1) 3.154 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên trở lên (306 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, chiếm tỷ lệ 0,64% và 2.848 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên, chiếm tỷ lệ 5,94%), tương ứng tỷ lệ 6,56% tổng số đơn vị SNCL của Bộ, ngành, địa phương (trong đó: Bộ, ngành: 385/1.191 đơn vị, tương ứng tỷ lệ 32,33%; địa phương: 2.769/46.793 đơn vị, tương ứng tỷ lệ 5,92%), chưa đạt mục tiêu “đến năm 2021 có 10% đơn vị tự chủ tài chính” tại Nghị quyết số 19-NQ/TW đề ra; (2) 9.067 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (chiếm tỷ lệ 18,9%), nhưng mức độ tự bảo đảm một phần còn thấp; (3) 35.763 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (chiếm tỷ lệ 74,53%). Kết quả thực hiện tự chủ nêu trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc chuyển số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước sang hưởng lương từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị SNCL. c) Nguồn kinh phí và tình hình phân bổ và sử dụng Hệ thống đơn vị SNCL được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn NSNN để thực hiện nhiệm vụ cung cấp những dịch vụ SNC thiết yếu, liên quan trực tiếp đến cuộc sống người dân và tổ chức Các đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ để chi tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương cho người lao động và toàn bộ hoạt động thường xuyên của đơn vị. Các đơn vị chi tiêu đúng chế độ, chính sách; thực hành tiết kiệm chi thường xuyên từ 5 -8 % trên cơ sở đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị và tăng thêm thu nhập cho viên chức, người lao động, đồng thời thực hiện công khai, dân chủ trong quản lý thu, chi theo đúng quy định của pháp luật. d) Kiểm soát các chi phí Đơn vị lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của đơn vị; Ban hành các quy chế tài chính, tài sản công, thực hiện chế độ kiểm toán, chế độ giám sát theo đúng quy định của pháp luật. 2.3. Kinh nghiệm quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập ở một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam 2.3.1. Kinh nghiệm quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập ở một số nước trên thế giới a) Kinh nghiệm quản trị tài chính của các tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công ở Trung Quốc b) Kinh nghiệm quản trị của các tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công ở Nhật Bản 2.3.2. Một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam Thứ nhất, năng lực quản trị của đơn vị SNCL có vai trò rất quan trọng, là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC của đơn vị. Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL cần được tiếp cận tổng thể, đồng bộ từ năng lực bộ máy quản trị, các chủ thể quản trị đến các lĩnh vực quản trị. Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL cần phải tính đến đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động của đơn vị SNCL. Thứ tư, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL cần có nỗ lực từ trên xuống, đồng thời cần phải sự nỗ lực từ dưới lên, từ chính bản thân đơn vị SNCL. Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL gắn với đề cao trách nhiệm các tổ chức, cá nhân liên quan, nhất là người đứng đầu đơn vị SNCL; đồng thời thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát và bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 3.1. Định hướng nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập Một là, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả cung ứng các dịch vụ SNC, đáp ứng yêu cầu của xã hội Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về đơn vị SNCL. Ba là, nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL gắn với sắp xếp, tổ chức lại hệ thống đơn vị SNCL nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị SNCL. Bốn là, áp dụng một số yếu tố của mô hình doanh nghiệp vào phương thức hoạt động của đơn vị SNCL, nhất là đối với những đơn vị có mức độ tự chủ cao Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị đơn vị SNCL Sáu là, chú trong đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo đơn vị SNCL về kỹ năng quản trị đơn vị 3.2. Các giải pháp nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập 3.2.1. Nâng cao nhận thức về mục tiêu và tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL Nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là các cơ quan chủ quản và các đơn vị SNCL, những người làm việc trong đơn vị SNCL, các đối tượng thụ hưởng dịch vụ SNC, vì vậy, để nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân về mục tiêu, sự cần thiết phải thực hiện. 3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập a) Về quản trị thực hiện chức năng, nhiệm vụ Hoàn thiện pháp luật về quyền tự chủ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị SNCL theo hướng quy định rõ những nhiệm vụ chủ yếu do Nhà nước giao hoặc đặt hàng cho đơn vị SNCL. Ngoài ra, đơn vị SNCL được quyết định những nhiệm vụ khác và được quyết định việc hợp tác, liên kết với các đơn vị khác trong thực hiện nhiệm vụ, không phải xin ý kiến hoặc được thỏa thuận với cơ quan nhà nước chủ quản. Theo đó, cần nghiên cứu hoàn thiện danh mục dịch vụ SNC sử dụng NSNN, danh mục dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu theo ngành, lĩnh vực cần Nhà nước cung cấp, hỗ trợ để bảo đảm hiệu quả chi NSNN đối với những dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu nhất cho tất cả các tầng lớp nhân dân (đặc biệt là người dân nghèo, vùng khó khăn...). Ban hành, sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có) theo ngành, lĩnh vực để các Bộ, ngành, địa phương ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế kỹ thuật làm căn cứ cho xây dựng giá dịch vụ SNC sử dụng NSNN. Hoàn thành lộ trình xây dựng khung giá dịch vụ SNC tính đủ chi phí (tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản) để thực hiện giao nhiệm vụ, đặt hàng, đầu thầu cung ứng dịch vụ SNC đối với các đơn vị SNCL. Các cơ quan quản lý từng bước chuyển sang phương thức đặt hàng dịch vụ SNC trên cơ sở xác định rõ các dịch vụ SNC mà đơn vị cung cấp đáp ứng yêu cầu đặt hàng; xác định và cam kết về chất lượng đầu ra đáp ứng yêu cầu đặt hàng. b) Về quản trị tổ chức bộ máy Mặc dù có các tên gọi khác nhau như: Hội đồng trường (ở các đơn vị SNCL trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo) Hội đồng quản lý bệnh viện (ở các đơn vị SNCL trong lĩnh vực y tế) v.v… nhưng tất cả đều có vai trò, chức năng của cơ quan quản trị cao nhất trong nội bộ đơn vị sự nghiệp (có thể gọi chung là Hội đồng quản lý). Theo quy định của pháp luật, Hội đồng quản lý của đơn vị SNCL nói chung đều thực hiện các nhiệm vụ quan trọng và quyền hạn khá lớn. Tuy nhiên thực tế cho thấy tại các đơn vị đã thành lập Hội đồng quản lý, hoạt động của Hội đồng chưa thực sự có hiệu quả, có phần mang tính hình thức, chưa thực quyền. Các cơ quan nhà nước chủ quản thường can thiệp quá mức cần thiết, quyết định thay Hội đồng quản lý nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng quản lý. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do chưa có hướng dẫn cụ thề về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản lý trong các ngành, lĩnh vực dịch vụ SNC khác nhau. Do đó tại khoản 3, khoản 4, Điều 20 Nghị định 120/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị SNC trong đó có quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ trưởng bộ quản lý ngành, lĩnh vực: hướng dẫn cụ thể về Hội đồng quản lý trong đơn vị SNCL thuộc ngành, lĩnh vực; ban hành tiêu chuẩn điều kiện bổ nhiệm, miễn các thành viên Hội đồng quản lý, Chủ tịch Hội đồng; phân định mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, Hội đồng trường/Hội đồng quản lý và Đảng ủy trong các đơn vị SNCL. Có như vậy mới có thể thực hiện “thí điểm việc thi tuyển và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị SNCL”. Đơn vị SNCL tự quyết định các vị trí việc làm, các chức danh, chức vụ của đơn vị. Cơ quan nhà nước chủ quản chỉ quyết định bổ nhiệm các thành viên Hội đồng quản trị của đơn vị SNCL. Hội đồng quản trị đơn vị SNCL có quyền lựa chọn để cơ quan chủ quản quyết định bổ nhiệm người đứng đầu (Giám đốc, Hiệu trưởng) hoặc có thể quyết định việc thuê giám đốc điều hành. Các chức vụ lãnh đạo, quản lý khác trong đơn vị do Hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành quyết định bổ nhiệm. Mặt khác, các đơn vị SNCL cần tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản lý; xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động của Hội đồng quản lý, phân biệt rõ ranh giới giữa hoạt động quản trị (của Hội đồng quản trị) với hoạt động điều hành (của Giám đốc, Hiệu trưởng) và hoạt động quản lý nhà nước (của cơ quan chủ quản) nhằm đảm bảo tính thực quyền của Hội đồng quản lý. Bên cạnh đó cơ quan chủ quản cần quan tâm đến việc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm về quản trị nội bộ cho các thành viên Hội đồng quản lý các đơn vị SNCL. c) Về quản trị nguồn nhân lực Đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế đối với đơn vị SNCL theo kết qủa thực hiện nhiệm vụ (kết quả đầu ra); từng bước thực hiện khoán quỹ lương thay vì khoán biên chế; quản lý, giám sát chặt chẽ biên chế của các ĐVSNCL do NSNN bảo đảm một phần hoặc toàn bộ chi thường xuyên. Giáo quyền cho đơn vị SNCL được tự chủ trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, đãi ngộ vật chất, tinh thần, khen thưởng, kỷ luật đối với viên chức và người lao động của đơn vị theo quy định của Luật Viên chức và Luật Lao động. Các cơ quan quản lý tiếp tục hướng dẫn xây dựng vị trí việc làm và khung năng lực vị trí việc làm, tạo điều kiện cho các đơn vị SNCL tuyển dụng và sử dụng hợp lý số lượng viên chức làm việc theo vị trí việc làm trong đơn vị. Người đứng đầu bộ, ngành, địa phương và người đứng đầu đơn vị SNCL chịu trách nhiệm về việc tinh giản biên chế; nếu không hoàn thành kế hoạch tinh giản biên chế đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt phải bị xử lý trách nhiệm. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện quản lý biên chế, số lượng người làm việc trong đơn vị SNCL, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và thống nhất, thông suốt từ trung ương đến địa phương. Với đội ngũ viên chức quản lý trong các đơn vị SNCL, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức lựa chọn, bố trí sử dụng viên chức quản lý theo hướng kết hợp chặt chẽ xét chọn và thi tuyển người đứng đầu. Xây dựng cơ chế chi thu nhập theo mức đóng góp của viên chức, người lao động c) Về quản trị tài chính Rà soát, đánh giá việc thực hiện tự chủ tài chính theo quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, làm cơ sở để các đơn vị SNCL xây dựng Đề án tự chủ, báo cáo Bộ, ngành, địa phương phê duyệt. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, về lộ trình tính giá dịch vụ SNC sử dụng NSNN; kinh phí hỗ trợ từ NSNN đối với các đơn vị SNCL; nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương của đơn vị nhóm 3 và nhóm 4; giao quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị SNC có đơn vị SNCL trực thuộc; sử dụng Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Trong đó, để bảo nguồn kinh phí cải cách tiền lương, cần bỏ quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 16 và Điểm b Khoản 1 Điều 20 về nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương vì không phù hợp với thực tế… Đổi mới phương thức giao dự toán kinh phí đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ SNC cơ bản, phục vụ đối tượng chính sách theo hướng Nhà nước đặt hàng cung cấp sản phẩm, dịch vụ; Có sự gắn kết tương xứng giữa số lượng, chất lượng dịch vụ SNC cung cấp và kinh phí Nhà nước đặt hàng. Hướng dẫn việc tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, phù hợp với thị trường và khả năng của NSNN. Các đơn vị tự chủ sử dụng kinh phí được Nhà nước đặt hàng nhưng phải đáp ứng tốt yêu cầu về số lượng, chất lượng dịch vụ SNC cung cấp. Nhà nước xây dựng và ban hành cơ chế kiểm định độc lập về chất lượng dịch vụ SNC cung cấp theo các lĩnh vực hoạt động. Đổi mới cơ chế tài chính công đối với nhóm các đơn vị SNCL, cung cấp các dịch vụ SNC có khả năng xã hội hóa cao, tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động. Các đơn vị này được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ SNC, được hạch toán kinh tế đầy đủ chi phí cần thiết; Quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính đủ các chi phí cần thiết, do cấp có thẩm quyền ban hành; Được Nhà nước giao vốn và bảo toàn, phát triển nguồn vốn; Có quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; Được huy động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, để mở rộng việc cung cấp dịch vụ SNC, tự quyết định biên chế và trả lương, trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả, chất lượng hoạt động. Bổ sung quy định cụ thể nguồn tài chính của đơn vị SNCL theo hướng tách rõ nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ SNC thuộc danh mục dịch vụ SNC sử dụng NSNN và nguồn thu từ hoạt động dịch vụ SNC không thuộc danh mục dịch vụ SNC sử dụng kinh phí NSNN; Đổi mới cơ chế quản lý, khai thác, sử dụng tài sản, cơ sở vật chất của các đơn vị SNCL, tạo cơ chế để các đơn vị SNCL sử dụng có hiệu quả vật lực hiện tại, quy định về cơ chế hợp tác công tư đối với đơn vị SNCL. Điều này góp phần nâng cao sự chủ động của các đơn vị SNCL trong sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, tranh thủ các hoạt động hợp tác với các đối tác, nâng cao năng lực cung ứng, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ SNC. Nâng cao chất lượng quản trị tài sản công của đơn vị SNCL. Tổ chức kiểm kê, đánh giá lại tài sản công tại đơn vị SNCL nhằm nắm chắc số lượng, chất lượng, chủ thể quản lý, sử dụng tài sản, đồng thời xác định chính xác giá trị của tài sản theo giá thực tế. Nâng cao hiệu quả xử lý tài sản công tại đơn vị SNCL theo hướng công khai, minh bạch. Ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện và kiểm soát việc xử lý tài sản công. 3.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, quản lý và viên chức của các đơn vị SNCL; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị SNCL Cùng với việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị SNCL, trong đó định rõ quyền hạn và trách nhiệm những người đứng đầu đơn vị SNCL, cần phân định rạch ròi việc nào do tập thể chịu trách nhiệm, việc nào do người đứng đầu chịu trách nhiệm. 3.2.4. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ sự nghiệp công Xã hội hội hoá dịch vụ SNC không chỉ tạo điều kiện để Nhà nước có thể tập trung nguồn lực tổ chức cung ứng các dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu nhất cho người dân và xã hội, mà còn tạo đòn bẩy nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL thông cơ chế cạnh tranh về chất lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC giữa các đơn vị SNCL với đơn vị ngoài công lập. Mặt khác, các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội một khi đã tham gia đầu tư vào các hoạt động cung ứng dịch vụ SNC, hơn ai hết họ luôn quan tâm đến hiệu quả đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn, từ đó đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả quản trị của đơn vị SNCL. Do vậy, cần tiếp tục rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các Nghị định quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích ưu đãi và thúc đẩy xã hội hoá trong cung ứng dịch vụ SNC phù hợp với tình hình thực tế và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, bảo đảm đủ khả năng thu hút nguồn lực ngoài xã hội tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ SNC. 3.2.5. Bảo đảm các điều kiện thực hiện a) Thực hiện công khai, minh bạch Nội dung phải công khai, minh bạch bao gồm: Việc thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao hoặc đặt hàng cùng với nguồn kinh phí cấp hoặc hỗ trợ, các dịch vụ SNC phục vụ xã hội với nguồn thu, các hoạt động liên doanh, liên kết của đơn vị; việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của công chức, viên chức, người lao động; việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công hoặc kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác; công tác tổ chức cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn; việc thực hiện chính sách, pháp luật mà theo quy định của pháp luật phải công khai, minh bạch... b) Xây dựng hệ thống đánh giá, kiểm soát nội bộ của đơn vị SNCL. Hệ thống kiểm soát nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ và tích cực đối với phát hiện và ngăn ngừa các gian lận, nâng cao tính tin cậy của các thông tin phục vụ cho quản lý, nâng cao kết quả hoạt động, là công cụ tốt cho thực hiện đạt các mục tiêu của tổ chức. c) Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong quản trị đơn vị SNCL Chuyển đổi số không phải là mục tiêu mà là phương tiện, là công cụ để nâng cao hiệu quả quản trị của đơn vị SNCL; đồng thời chuyển đổi số không chỉ là sự đầu tư về công nghệ mà quan trọng hơn là quá trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực làm việc, năng lực xử thông tin, năng lực ra quyết định trước những biến động của môi trường quản trị. d) Tăng cường kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, đối tượng thụ hưởng Dịch vụ SNC có tác động đến nhiều đối tượng khác nhau, các đối tượng liên quan, đối tượng thụ hưởng, vì vậy, để tạo động lực và áp lực nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL, cần phát huy vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, có cơ chế phản hồi từ đối tượng thụ hưởng dịch vụ. KẾT LUẬN Đơn vị SNCL có chức năng cung cấp các dịch vụ SNC đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân và tổ chức. Với cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính hiện nay, việc nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL là yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Các nội dung quản trị đơn vị SNCL bao gồm: Quản trị thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quản trị nhân sự, quản trị tài chính và tài sản. Năng lực quản trị của đơn vị SNCL được hiểu là khả năng kết hợp, sử dụng tối ưu các nguồn lực thông qua một hệ thống các cơ chế, cơ cấu tổ chức, quy trình để đạt được mục tiêu đã đề ra trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của đơn vị SNCL một cách hiệu quả. Để nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL đáp ứng yêu cầu mới, đòi hỏi tiếp tục đầu tư nghiên cứu về mặt lý luận, làm rõ các khái niệm, nội hàm, nguyên tắc, phương pháp quản trị cũng như phải rà soát, đánh giá thực trạng năng lực quản trị của các đơn vị SNCL, chỉ ra ra những hạn chế, yếu kém, những khó khăn, vướng mắc về các mặt: thực hiện nhiệm vụ, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật tổ chức, nhân lực….Từ đó tạo cơ sở cho việc đề xuất các quan điểm và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực quản trị đơn vị SNCL trong điều kiện đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị SNCL. Đề tài đã bước đâu làm rõ một số vấn đề về lý luận về quản trị, nâng cao năng lực quản trị, chỉ rõ năng lực quản trị đơn vị SNCL quyết định trực tiếp việc hoàn thành sứ mệnh, mục tiêu và sự phát triển của đơn vị SNCL; quyết định hiệu quả hoạt động của đơn vị SNCL; là nhân tố quyết định việc đảm bảo vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với dịch vụ SNC; có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Đề tài cũng nghiên cứu hệ thống hóa kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong việc nâng cao năng lực quản trị của đơn vị SNCL, từ đó chỉ ra những giá trị tham khảo đới với Việt Nam. Đánh giá thực trạng năng lực quản trị của các đơn vị SNCL ở nước ta hiện nay, đề tài tiếp cận năng lực quản trị thực hiện nhiệm vụ; tổ chức bộ máy, nhân sự; tài chính và cơ sở vật chất, chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất các định hướng và giải pháp nâng cao năng lực quản trị của các đơn vị SNCL; theo đó, để nâng cao năng lực quản trị của các đơn vị SNCL, cần có các giải pháp tổng thể và thực hiện các mô hình thí điểm để từ đó đánh giá kết quả thực hiện trong thực tiễn. Năng lực quản trị đơn vị SNLC cũng không phải là một yếu tố bất biến mà cần có sự thích ứng với các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, đặc thù từng lĩnh vực cung ứng dịch vụ SNC./. |
11 |
Lĩnh vực nghiên cứu: Khoa học xã hội |
12 |
Mục tiêu kinh tế xã hội của nhiệm vụ: |
13 |
Phương pháp nghiên cứu: |
14 |
Sản phẩm khoa học và công nghệ dự kiến: |
15 |
Địa chỉ và quy mô ứng dụng dự kiến: |
16 |
Thời gian thực hiện: 0 tháng (từ 01/02/2022 đến 01/12/2022) |
17 |
Kinh phí được phê duyệt: 250 triệu đồng
- Từ ngân sách nhà nước: 250 triệu đồng
- Từ nguồn tự có của tổ chức: 0
- Từ nguồn khác: 0
|
18 |
Quyết định phê duyệt: số 122/QD-BNV ngày 27 tháng Tháng 2 năm 2022 |
19 |
Hợp đồng thực hiện: số ngày 01 tháng Tháng 1 năm 1970 |
XÁC NHÂN CỦA ĐƠN VỊ QUẢN LY NHIỆM VỤ |
NGƯỜI GHI THÔNG TIN
|