- Xây dựng mô hình chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo thích ứng với xã hội số tại tỉnh Thái Nguyên
- Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển sản xuất lúa hàng hóa trên địa bàn tỉnh Hải Dương
- Chăn nuôi heo gà tập trung trên đệm lót sinh học và xây dựng công trình khí sinh học đảm bảo vệ sinh môi trường
- Nghiên cứu tái thiết lập chương trình trực tiếp in vitro và in vivo nguyên bào sợi chuột thành tế bào tiền thân giống nguyên bào mạch
- Đầu tư xây dựng phòng đọc đa phương tiện tại Thư viện khoa học tổng hợp tỉnh Thanh Hoá
- Khảo sát tỷ lệ viêm âm đạo trong thai kỳ do ba tác nhân thường gặp và các yếu tố liên quan tại BVĐK Chợ Mới
- Quản trị tài chính đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam sau sáp nhập
- Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô
- Phát triển kinh tế biển kết hợp bảo vệ chủ quyền trên các biển đảo của tỉnh Quảng Bình trong tình hình mới
- Nghiên cứu quy trình nhân giống và phát triển vùng cây bưởi làng Múc xã Thái Niên tỉnh Lào Cai
- Nhiệm vụ đang tiến hành
ĐT.01/22
Cơ sở khoa học chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Bộ Nội vụ
Bộ
PGS.TS. Nguyễn Minh Phương
Khoa học xã hội
01/02/2022
01/12/2022
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL xác định mục tiêu đến năm 2021: Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các bệnh viện và trường học).
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 về việc chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần và Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 ban hành tiêu chí danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020. Theo Bộ Tài chính, Chính phủ đã chọn ra 338 đơn vị để đưa vào danh mục cần chuyển đổi thành công ty cổ phần. Trong số này có 213 đơn vị đã được phê duyệt và đưa vào danh mục chuyển đổi. Tuy nhiên, việc chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần còn chậm, chỉ chiếm 24,2% số lượng đơn vị SNCL được phê duyệt Danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020 .… Một số đơn vị sự nghiệp kinh tế sau khi cổ phần hóa gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô và kiểm soát, xử lý các nguồn lực tài chính. Đồng thời, có những đơn vị SNCL chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần đang đối mặt với những thách thức của thị trường, nguy cơ thất thoát tài sản của Nhà nước lớn, những vấn đề liên quan đến việc làm, thu nhập của người lao động đang đặt ra.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm trễ đó như: việc xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh và phương án chuyển đổi chưa phù hợp; công tác giám sát tình hình hoạt động và cung cấp dịch vụ SNC chưa chặt chẽ, sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, có hiện tượng giảm chất lượng dịch vụ hoặc ngừng cung cấp dịch vụ SNC do không cạnh tranh được. Xác lập quyền sử dụng đất, phương án sử dụng đất, xác dịnh giá trị doanh nghiệp... đối với doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa đã phức tạp, thì với đơn vị SNC phức tạp hơn rất nhiều. Các văn bản pháp lý hiện tại chưa hướng dẫn chi tiết về cơ chế tài chính, quản lý, sử dụng các tài sản cơ sở hạ tầng như: rừng, cảng, chợ, bến xe… nên các đơn vị SNCL sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần chưa thể tiếp quản và sử dụng.
Nghị định số 150/2020/NĐ-CP ngày 25/12/2020 của Chính phủ về chuyển đổi đơn vị SNCL thành công ty cổ phần quy định hình thức chuyển đổi đơn vị SNCL, đối tượng và điều kiện mua cổ phần, đồng tiền thanh toán và phương thức bán cổ phần lần đầu, chi phí thực hiện chuyển đổi và thẩm quyền phê duyệt; xử lý tài chính khi chuyển đổi đơn vị SNCL; xác định giá trị đơn vị SNCL chuyển đổi; bán cổ phần lần đầu, quản lý sử dụng tiền thu từ chuyển đổi đơn vị SNCL, bàn giao giữa đơn vị SNCL chuyển đổi và công ty cổ phần; tổ chức thực hiện…Tuy nhiên, pháp luật chưa có những quy định ràng buộc về cơ chế giám sát tình hình cung cấp dịch vụ công sau cổ phần hóa, thiếu các chế tài đối với nhà đầu tư chiến lược, đồng thời chưa có quy định về việc bán toàn bộ phần vốn Nhà nước tại đơn vị SNCL cũng như kết hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Việc chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là rất cần thiết nhằm thu hút các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng dịch vụ SNC, góp phần tổ chức lại mạng lưới đơn vị SNCL và tạo điều kiện để sử dụng hiệu quả nguồn NSNN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên việc chuyển một đơn vị SNCL có chức năng cung cấp dịch vụ công hoặc phục vụ quản lý nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận thành doanh nghiệp cổ phần cung ứng dịch vụ công theo cơ chế thị trường, cạnh tranh về dịch vụ, giá dịch vụ theo thị trường là vấn đề phức tạp. Bởi vì việc chuyển đổi này làm thay đổi mục đích, phương thức hoạt động, tổ chức bộ máy, nhân sự, cách thức quản trị tài chính của đơn vị. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài khoa học “Cơ sở khoa học chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu ngoài nước
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của đơn vị SNCL đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, tuy nhiên, có rất ít bài viết về chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần. Đây là một vấn đề mới và phức tạp, còn chưa rõ sau khi chuyển thành các công ty cổ phần, các sản phẩm, dịch vụ do các công ty này cung ứng có còn thuộc phạm vi dịch vụ công hay là hàng hóa theo quy luật của thị trường? Trách nhiệm bảo đảm cung ứng dịch vụ công của Nhà nước trong các lĩnh vực này như thế nào? Về thực tiễn, làm thế nào để tài sản của Nhà nước và chất lượng, hiệu quả dịch vụ của các đơn vị được chuyển đổi này được bảo đảm? Quyền và lợi ích của các đối tượng thụ hưởng không bị ảnh hưởng? Do vậy cần tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ sự cần thiết và cơ sở khoa học của việc chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận giải cơ sở khoa học và đề xuất định hướng, giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần;
- Đánh giá thực trạng chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần, chỉ ra những kết quả, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
- Đề xuất định hướng và giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Một số đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần thuộc danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Cơ sở lý luận và thực tiễn chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
- Về thời gian: Khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần từ năm 2015 đến 2021 và đề xuất giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần giai đoạn 2023-2030
- Về không gian: Nghiên cứu chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần trực thuộc một số Bộ và UBND cấp tỉnh.
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
- Cách tiếp cận lịch sử, cụ thể
- Cách tiếp cận toàn diện, tổng thể
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp lịch sử kết hợp với lôgíc
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp chuyên gia
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài góp phần hệ thống hóa và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về đặc điểm, tính chất của đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự cần thiết của việc chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
- Cung cấp một số giải pháp hoàn thiện thể chế chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm của một số quốc gia về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần;
Chương 2: Thực trạng chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần;
Chương 3: Định hướng và giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ CHUYỂN ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KINH TẾ
THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về đơn vị sự nghiệp kinh tế và công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trò của đơn vị sự nghiệp kinh tế
a) Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Ở nước ta trước khi có Luật Viên chức năm 2010, quan niệm về đơn vị SNCL thường gắn với nhà nước: “Đơn vị SNCL là tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động cơ bản của nó là cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội trong các lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,…” ; “Đơn vị SNCL là những đơn vị do Nhà nước thành lập thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực: Y tế, Giáo dục và Đào tạo, khoa học, công nghệ và Môi trường, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm…” . Hoặc, có trường hợp sử dụng khái niệm “đơn vị SNC” hay “tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập” để chỉ các đơn vị SNCL.
Theo Luật Viên chức số 58/2010/QH12 “Đơn vị SNCL là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Theo đó, đơn vị SNCL là loại hình tổ chức nằm trong khu vực công (gồm khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội). Đơn vị SNCL gồm: đơn vị SNCL được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị SNCL được giao quyền tự chủ); đơn vị SNCL chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị SNCL chưa được giao quyền tự chủ).
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về đơn vị SNCL theo những cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên các quan niệm này đều có điểm chung về bản chất của đơn vị SNCL “là những đơn vị được thành lập để cung cấp các dịch vụ SNC mang tính phục vụ xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm duy trì, đảm bảo sự hoạt động bình thường của xã hội”.
b) Đơn vị sự nghiệp kinh tế
Đơn vị sự nghiệp kinh tế, trước hết là thuộc hệ thống đơn vị SNCL, tức là đơn vị do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ SNC, phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, lao động, thương binh và xã hội, tư pháp, sự nghiệp khác. Các đơn vị sự nghiệp kinh tế có nhiều tên gọi khác nhau như: Trung tâm, trạm, trại, công ty, ban quản lý, đoạn, đội, viện,…Người đứng đầu đơn vị thường được gọi là giám đốc, trưởng ban,..
- Phân loại các đơn vị sự nghiệp kinh tế theo lĩnh vực hoạt động, gồm:
+ Lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trạm Chăn nuôi và thú y; Trạm Trồng trọt và bảo vệ thực vật; Trạm Khuyến nông, khuyến ngư; Ban quản lý rừng phòng hộ;...
+ Lĩnh vực Tài nguyên và môi trường: Trung tâm Phát triển quỹ đất; Trung tâm Nước sạch và vệ sinh môi trường; Công ty thoát nước và xử lý nước thải;…
+ Lĩnh vực Giao thông, vận tải: Ban Quản lý dự án; Trung tâm kỹ thuật đường bộ; Trung tâm Đăng kiểm phương tiện đường bộ, đường thuỷ; Ban Quản lý bến xe; Xí nghiệp bến xe, tàu; Đoạn Quản lý đường bộ, đường sông; Công ty Quản lý cầu đường; Hạt Giao thông; Trung tâm đào tạo lái xe; Trung tâm dạy nghề; Đội công trình giao thông vận tải và vệ sinh môi trường;…
+ Lĩnh vực Xây dựng: Trung tâm Quy hoạch và kiểm định xây dựng; Trung tâm tư vấn kỹ thuật và giám sát công trình xây dựng; Trung tâm quy hoạch và thiết kế kiến trúc; Viện Quy hoạch và Thiết kế xây dựng; …
+ Lĩnh vực Thương mại, dịch vụ: Ban Quản lý chợ, Nhà khách, nhà nghỉ, …
+ Lĩnh vực Nông nghiệp: Trung tâm Giống cây trồng; Trung tâm giống thủy sản; Trung tâm tư vấn nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm sản xuất nông nghiệp công nghệ cao;…
+ Lĩnh vực Khoa học và công nghệ: Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn Đo lường chất lượng; Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ;…
+ Lĩnh vực Tài chính- đầu tư: Ban quản lý dự án đầu tư; Ban Quản lý khu kinh tế; Trung tâm Dịch vụ kinh tế; Trung tâm Dịch vụ khu công nghiệp; Trung tâm Tư vấn và dịch vụ tài chính;…
+ Lĩnh vực Thông tin, văn hoá: Trung tâm Phát hành sách; Trung tâm Công nghệ thông tin và truyền thông;…
- Phân loại theo mục tiêu hoạt động, các đơn vị sự nghiệp kinh tế gồm:
+ Các đơn vị sự nghiệp kinh tế cung cấp dịch vụ công;
+ Các đơn vị sự nghiệp kinh tế vừa cung cấp dịch vụ công, vừa phục vụ quản lý nhà nước.
+ Các đơn vị sự nghiệp kinh tế phục vụ quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực.
- Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp kinh tế:
+ Là một loại đơn vị SNCL nên về cơ bản, đơn vị sự nghiệp kinh tế có các đặc điểm của đơn vị SNCL nói chung:
Thứ nhất, được thành lập và trực thuộc nhiều có cơ quan chủ quản khác nhau. Người làm việc trong hệ thống đơn vị SNCL chủ yếu là viên chức được tuyển dụng theo vị trí việc làm; hoạt động nghề nghiệp; làm việc theo chế độ hợp đồng; hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị SNCL.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các đơn vị SNCL là không vì lợi nhuận, chủ yếu phục vụ lợi ích cộng đồng.
Thứ ba, hoạt động của các đơn vị SNCL luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát triển KT - XH của đất nước.
Thứ tư, các đơn vị SNCL phải tuân thủ các quy định về quản lý tài chính của Nhà nước, của ngành, của đơn vị quản lý cấp trên và chịu sự kiểm tra, giám sát và quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước.
+ Một số đặc điểm riêng của đơn vị sự nghiệp kinh tế:
Phần lớn các dịch vụ, sản phẩm do đơn vị sự nghiệp kinh tế cung ứng gắn với phục vụ trực tiếp các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, tổ chức.
Một số dịch vụ, sản phầm do các đơn vị sự nghiệp kinh tế có tính chất dịch vụ công ích do các doanh nghiệp cung ứng theo đặt hàng, hoặc đấu thầu của Nhà nước, ví dụ dịch vụ cấp nước sạch, bảo vệ môi trường, dịch vụ chăm sóc cây xanh công cộng,..
- Một số đơn vị sự nghiệp kinh tế được thành lập với mục đích ban đầu là phục vụ quản lý nhà nước, hoặc vừa cung ứng dịch vụ SNC, vừa phục vụ quản lý nhà nước.
- Một số đơn vị sự nghiệp kinh tế cung ứng các dịch vụ mà đến nay khu vực thị trường hoàn toàn có thể đảm nhận, ví dụ dịch vụ nhà khách, nhà nghỉ,…
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần
“Công ty cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” .
Theo pháp luật Việt Nam, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sẽ sở hữu cổ phần. Tối thiểu phải có 03 cổ đông và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Lợi nhuận mà cổ đông nhận được từ việc sở hữu cổ phần là cổ tức; Công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Công ty cổ phần có đầy đủ các yếu tố để được coi là có tư cách pháp nhân theo Điều 74 Bộ Luật Dân sự 2015. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, công ty chính thức có tư cách pháp nhân.
1.2. Một số vấn đề lý luận về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm và nội dung, đặc điểm chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
1.2.1.1. Khái niệm cổ phần hoá và chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đơn vị SNCL là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước, đơn vị SNCL mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đa sở hữu); chuyển doanh nghiệp, đơn vị SNCL từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước hoặc theo cơ chế cung ứng dịch vụ SNC sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp.
Chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần chính là việc Nhà nước cho phép chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất (Nhà nước) sang đa sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của đơn vị sự nghiệp kinh tế cho các thành phần kinh tế khác; là cho phép đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, cụ thể là doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu (công ty cổ phần).
1.2.1.2. Nội dung chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần được thực hiện theo các hướng: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp kinh tế, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ; Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại đơn vị sự nghiệp kinh tế hoặc vừa kết hợp bán một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Quá trình chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là một quá trình xử lý về tài chính và chuyển đổi vị trí pháp lý của đơn vị sự nghiệp kinh tế từ một tổ chức mang tính chất sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước thành một tổ chức kinh tế đa sở hữu dưới mô hình công ty cổ phần.
1.2.1.3. Đặc điểm chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Thứ nhất, chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là một trong các hình thức xã hội hóa việc cung ứng dịch vụ SNC.
Thứ hai, chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là sự thay đổi toàn diện về tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển từ đơn vị hoạt động phi lợi nhuận sang cơ chế hoạt động theo cơ chế thị trường, cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và đảm bảo yếu tố hiệu quả kinh tế trong tổ chức và hoạt động.
Thứ ba, đơn vị cung ứng dịch vụ SNC được chuyển dịch hoàn toàn từ khu vực nhà nước sang khu vực doanh nghiệp, theo đó tài sản công cũng được chuyển đổi sở hữu thành tài sản của khu vực tư, trường hợp Nhà nước muốn đưa các tài sản này về khu vực nhà nước thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường chứ không thể can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính.
1.2.1.4. Những điểm giống nhau và khác nhau trong chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế và doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần :
- Điểm giống nhau: Cùng là quá trình để chuyển một tổ chức thuộc sở hữu nhà nước (đơn vị sự nghiệp kinh tế và doanh nghiệp nhà nước) thành một tổ chức kinh tế đa sở hữu nhằm tạo ra một doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần và được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp và Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
- Những điểm khác nhau, gồm: về căn cứ pháp lý áp dụng; về mô hình tổ chức; về tôn chỉ, mục đích hoạt động; về cơ chế tài chính và công cụ quản lý tài chính, kế toán; về cơ cấu giá dịch vụ cung ứng; ề tình hình vốn và tài sản:
1.2.2. Sự cần thiết chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Thứ nhất, đối với hệ thống đơn vị SNCL, việc chuyển này nhằm góp phần tổ chức hợp lý mạng lưới các đơn vị SNCL, khắc phục các hạn chế của hệ thống đơn vị SNCL hiện nay.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới công tác quản trị, nâng cao sức cạnh tranh của các đơn vị sự nghiệp kinh tế.
Thứ ba, chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là một phương thức xã hội hóa dịch vụ công, tạo ra sự thay đổi trong cơ chế quản lý nhà nước đối với đơn vị SNCL phù hợp với giai đoạn hiện nay,
Thứ tư, chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần tạo điều kiện phát huy khả năng, năng lực tiềm tàng trong xã hội; khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của người dân..., nhờ đó, đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng dịch vụ công cho xã hội.
Thứ năm, chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công cổ phần nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn về chất lượng dịch vụ SNC.
Thứ sáu, cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp kinh tế góp phần phòng chống tham nhũng, tăng trưởng kinh tế và phát triển thị trường dịch vụ kinh tế.
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Một số tiêu chí có thể đề cập đến khi đánh giá quá trình chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần gồm:
- Tiêu chí về số lượng: Số lượng đơn vị sự nghiệp kinh tế được chuyển thành công ty cổ phần và sau khi chuyển đổi tiếp tục bảo đảm cung ứng số lượng, chất lượng dịch vụ SNC cho người dân, tổ chức;
- Tiêu chí về chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC;
- Tiêu chí về năng lực quản trị công ty cổ phần sau khi được chuyển đổi;
- Tiêu chí về khả năng thu hút vốn đầu tư;
- Tiêu chí về tốc độ phát triển;
- Tiêu chí về phát triển con người;
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
1.3.1. Đặc điểm lĩnh vực và địa bàn hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế
1.3.2. Khả năng thu hút các nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp kinh tế
1.3.3. Thể chế quản lý đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế và công ty cổ phần
1.3.4. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mức sống của dân cư ở các địa phương
1.3.5. Sự phát triển của kinh tế thị trường; mức độ cạnh tranh của khu vực tư
1.4. Kinh nghiệm chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần của một số quốc gia và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
1.4.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga
1.4.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
1.4.4. Kinh nghiệm của Nauy
1.4.5. Một số giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Thứ nhất, cần xác định mục tiêu, phạm vi/đối tượng và các giải pháp để giảm thiểu các rủi ro của quá trình cổ phần hóa đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế đối với xã hội.
Thứ hai, để có thể thu hút được nhà đầu tư tham gia mua cổ phần và các doanh nghiệp có thể tiếp tục cung cấp dịch vụ công một cách ổn định sau chuyển đổi, nên thực hiện đối với những lĩnh vực có thể thương mại hóa.
Thứ ba, quá trình cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp kinh tế chỉ đạt kết quả nếu tạo được sự cạnh tranh đáng kể trên thị trường.
Thứ tư, cùng với cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp kinh tế, nhà nước cần triển khai đồng thời hai công cụ khác gồm: i) Cơ chế giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công và (ii) Cơ chế quản lý giá để đảm bảo các doanh nghiệp có thể cung cấp dịch vụ công ở mức chi phí phù hợp.
Thứ năm, công khai, minh bạch là yếu tố hết sức quan trọng, cả trong quá trình cổ phần hóa và sau quá trình cổ phần hóa.
Chương 2 THỰC TRẠNG CHUYỂN MỘT SỐ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KINH TẾ THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Khái quát về hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta
Số lượng đơn vị và nhân lực trong các đơn vị SNCL ở nước ta rất lớn: Năm 2017 có 57.995 đơn vị, với 2.441.791 người (chưa tính tổ chức và biên chế sự nghiệp trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước).
Sau 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 19, đến 31/12/2021, số lượng đơn vị SNCL cả nước giảm còn 48.044 đơn vị. Trong đó:
+ Đơn vị SNCL thuộc các Bộ, ngành là 1.015 đơn vị.
+ Đơn vị SNCL thuộc các địa phương là 47.029 đơn vị.
Như vậy, tính đến 31/12/2021 kết quả sắp xếp tổ chức lại các đơn vị SNCL của các Bộ ngành, địa phương trong cả nước đã giảm được 9.951 đơn vị, giảm 17,15% so với năm 2016, đạt được mục tiêu của Nghị quyết đến năm 2021 tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị SNCL.
Về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, có: 1) 274 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (chiếm tỷ lệ 0,6%); 2) 2.849 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên (chiếm tỷ lệ 5,9%); 3) 8.940 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (chiếm tỷ lệ 18,6%); 4) 35.891 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (chiếm tỷ lệ 74,9%).
- Về chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần
Tính đến tháng 6/2020 (thời điểm trình Chính phủ ban hành Nghị định số 150/2020/NĐ-CP ngày 25/12/2020 của Chính phủ về chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần), đã có 63 Bộ, ngành, địa phương (03 Bộ và 60 địa phương) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục đơn vị SNCL chuyển thành công ty cổ phần với số lượng 220 đơn vị phải thực hiện cổ phần hóa, trong đó có 48 đơn vị đã phê duyệt phương án cổ phần hóa. Việc chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần thời gian qua đã có một số kết quả tích cực như: thu hút thêm nguồn lực xã hội trong việc cung cấp dịch vụ công; bố trí và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực theo hướng cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức theo vị trí việc làm, đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị SNCL sau chuyển đổi; nâng cao thu nhập cho người làm việc tại đơn vị.
2.2. Các quy định về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
2.2.1. Quy định về điều kiện, tiêu chí và danh mục các đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần
Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 yêu cầu các đơn vị sự nghiệp cung cấp những dịch vụ SNC có đủ điều kiện, trước hết là các đơn vị sự nghiệp kinh tế, thực hiện cơ chế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp và từng bước cổ phần hóa theo quy định.
Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 xác định phải sắp xếp, tổ chức lại đơn vị SNCL, thực hiện hạch toán như doanh nghiệp đối với đơn vị có đủ điều kiện, cổ phần hóa đơn vị có đủ điều kiện, trừ bệnh viện, trường học; giải thể đơn vị hoạt động kém hiệu quả.
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 chủ trương chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần, cụ thể: Giai đoạn đến năm 2021: ...Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các bệnh viện và trường học). Đến năm 2025:... 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần”.
Ngày 22/6/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg, “Về việc chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần”. Đây là quy định pháp lý đầu tiên về việc chuyển đổi các đơn vị SNCL sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần quy định tiêu chí, danh mục ngành, lĩnh vực hoạt động của đơn vị SNCL để thực hiện chuyển thành công ty cổ phần trong giai đoạn 2017 - 2020. Theo đó, đơn vị SNCL thực hiện chuyển thành công ty cổ phần khi đáp ứng đồng thời các tiêu chí sau: 1) Tự bảo đảm được toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên trong năm gần nhất với thời điểm thực hiện chuyển đổi hoặc có khả năng tự bảo đảm được toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên sau khi chuyển đổi; 2) Thuộc danh mục chuyển thành công ty cổ phần theo quy định tại Điều 3 Quyết định này; 3) Có phương án tiếp tục cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt. Theo Quyết định này, thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không giữ cổ phần tại các đơn vị SNCL hoạt động trong 20 ngành, lĩnh vực.
Nghị định số 150/2020/NĐ-CP ngày 25/12/2020 của Chính phủ, “Về việc chuyển đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần” có những thay đổi và quy định chi tiết hơn so với Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện để chuyển đổi đơn vị; hướng dẫn chi tiết hơn về xử lý tài chính, như: xử lý đất đai, tài sản, số dư tiền tại các quỹ của đơn vị ở thời điểm chuyển đổi, các khoản nợ phải thu, phải trả, đầu tư tài chính…
Thay thế Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg, ngày 12/8/2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg “Về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần”. Theo đó, quy định tại Điều 2 Danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần và tỷ lệ cổ phần do Nhà nước nắm giữ tại doanh nghiệp sau chuyển đổi, gồm:
1. Danh mục ngành, lĩnh vực đơn vị SNCL thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ: Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn.
2. Danh mục ngành, lĩnh vực đơn vị SNCL thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống hoặc không giữ cổ phần; khi chào bán cổ phần lần đầu, Nhà nước nắm giữ trên 35% đến 50% vốn điều lệ để bảo đảm vai trò của Nhà nước, ổn định tổ chức và duy trì chất lượng dịch vụ cung cấp sau cổ phần hóa.
- Nghị định số 148/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ về quản lý, sử dụng nguồn thu từ chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị SNCL, nguồn thu từ chuyển nhượng vốn Nhà nước và chênh lệch vốn chủ sở hữu lớn hơn vốn điều lệ tại doanh nghiệp
Để triển khai thực hiện các quy định về cổ phần hoá đơn vị SNCL, các Bộ có liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn như: Thông tư số 03/TT-BTNMT ngày 12/5/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn nội dung chi tiết phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; lập và phê duyệt phương án sử dụng đất đối với đơn vị SNCL thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần; Thông tư số 111/2020/TT-BTC ngày 29/12/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về xử lý tài chính, xác định giá trị đơn vị SNCL, bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử dụng tiền thu từ chuyến đổi đơn vị SNCL thành công ty cổ phần; Thông tư số 56/2022/TT-BTC ngày 16/9/2022 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị SNCL; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị SNCL
2.2.2. Quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Việc chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần gắn liền với trách nhiệm của các chủ thể khác nhau từ Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch UBND cấp tỉnh đến bản thân đơn vị sự nghiệp kinh tế.
2.3. Tình hình chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
2.3.1. Những kết quả đạt được
a) Về số lượng đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần
- Trong giai đoạn 2017-2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Danh mục đơn vị SNCL chuyển thành công ty cổ phần của 49 địa phương, 04 Bộ và 01 Tập đoàn kinh tế với tổng số lượng là 232 đơn vị SNCL, trong đó có 223 đơn vị SNCL thuộc UBND cấp tỉnh, 09 đơn vị SNCL thuộc Bộ, Tập đoàn kinh tế nhà nước
- Cơ cấu ngành, lĩnh vực hoạt động của 223 đơn vị SNCL thuộc 49 địa phương đã được phê duyệt chuyển thành công ty cổ phần như sau: Trong số các đơn vị SNCL được phê duyệt chuyển thành công ty cổ phần, lĩnh vực tư vấn chiếm tỷ trọng lớn nhất (54 đơn vị SNCL, chiếm 24,3%); lĩnh vực kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới đường thủy (37 đơn vị SNCL chiếm 16,5%); lĩnh vực quản lý, bảo trì bến tàu, bến xe (25 đơn vị SNCL chiếm 11,2%). Một số ít đơn vị sự nghiệp kinh tế hoạt động trong lĩnh vực thông tin thị trường lao động, dịch vụ việc làm, hỗ trợ phát triển quan hệ lao động, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các dịch vụ hỗ trợ, cung cấp thông tin, quảng bá du lịch cũng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để chuyển thành công ty cổ phần trong giai đoạn 2017-2020.
Tính đến hết năm 2020, cả nước đã có 53 đơn vị sự nghiệp kinh tế (chiếm 22,8% trong tổng số các đơn vị SNCL đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chuyển thành công ty cổ phần) đã hoàn thành việc cổ phần hóa, tập trung chủ yếu là các đơn vị SNCL thuộc UBND cấp tỉnh; phần lớn được thực hiện trong giai đoạn 2017-2019 (41 đơn vị SNCL, chiếm 77,4%). Ngành, lĩnh vực hoạt động của 53 đơn vị sự nghiệp kinh tế đã thực hiện chuyển thành công ty cổ phần tập trung trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ tư vấn, kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới và phương tiện thủy, quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, đường thủy nội địa; kinh doanh nhà khách, nhà nghỉ, dịch vụ lưu trú và phục vụ hội họp; phát triển hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp; lĩnh vực đào tạo sát hạch lái xe .
Việc thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần về cơ bản đã được các Bộ, địa phương chủ động thực hiện triển khai, đã có 23 Bộ, ngành, địa phương thực hiện thành công việc chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần; trong đó có 02 địa phương hoàn thành chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần nhiều nhất: Hậu Giang (6 đơn vị), Quảng Nam (9 đơn vị). Tuy nhiên, việc chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần còn chậm, chỉ chiếm 24,2% số lượng đơn vị SNCL được phê duyệt Danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020. Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện, một số địa phương chưa bám sát với các quy định (07 địa phương ban hành Quyết định phê duyệt phương án chuyển đổi khi chưa nhận được văn bản ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ) .
b) Kết quả sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ
Theo kết quả khảo sát thực tế của Bộ Tài chính và báo cáo đánh giá của các Bộ ngành, địa phương, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một số đơn vị kinh tế đã chuyển thành công ty cổ phần có những chuyển biến tích cực so với thời điểm chuyển đổi: Doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng từ 14.950 triệu đồng lên 46.876 triệu đồng (tăng 214%), lợi nhuận bình quân tăng từ 667 triệu đồng lên 4.081 triệu đồng (tăng 503%). Mặc dù vẫn còn các đơn vị hoạt động thua lỗ, doanh thu giảm sút nhưng nhìn chung các đơn vị sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần đều hoạt động hiệu quả hơn.
Theo báo cáo của các địa phương, tình hình hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế sau khi chuyển đổi đã có nhiều cải thiện. Số lượng đơn vị có doanh thu trên 20 tỷ tăng lên trên 50% và đã xuất hiện các đơn vị có doanh thu trên 100 tỷ đồng. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp sau chuyển đổi chưa đạt mức lợi nhuận như phương án khi chuyển đổi vì nhiều lý do khác nhau. Tại một số đơn vị sự nghiệp kinh tế, sau khi được chuyển thành công ty cổ phần, nhiều viên chức có trình độ chuyên môn giỏi đã xin chuyển sang đơn vị khác nên chất lượng hoạt động của đơn vị có phần giảm sút so với trước.
Ngoài ra, xuất hiện tình trạng không tiếp tục cung cấp dịch vụ SNC sau chuyển đổi khi doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, ví dụ: một số Trung tâm Đăng kiểm tại TP. Gia Lai, TP. Hồ Chí Minh đã dừng hoạt động theo quyết định của Hội đồng Quản trị; Viện Dệt may sau chuyển đổi đã được chuyển thành bộ phận nghiên cứu của riêng công ty mẹ.
b) Tình hình tài chính, cơ sở vật chất và huy động vốn
Phần lớn các đơn vị SNCL được cổ phần hóa trong giai đoạn 2015-2020 là các đơn vị có quy mô nhỏ, chỉ có khoảng 14/53 đơn vị SNCL có giá trị vốn và tài sản nhà nước được xác định trước khi cổ phần hóa lớn hơn 10 tỷ. Về huy động vốn, sau khi chuyển thành công ty cổ phần, phần lớn các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc huy động nguồn lực xã hội, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
c) Tổ chức bộ máy và đội ngũ viên chức, người lao động
Các doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp kinh tế đều tổ chức đào tạo, rà soát bố trí lại việc làm cho người lao động phù hợp với chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong doanh nghiệp, giải quyết tốt việc xử lý lao động dôi dư.
Thu nhập trung bình của viên chức, người lao động tại các doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp kinh tế tăng gần 30% so với thời điểm chuyển đổi. Tuy nhiên, nhiều đơn vị số tăng không đáng kể, nhiều doanh nghiệp thu nhập trung bình của viên chức, người lao động chỉ đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng.
Đáng chú ý, sau khi chuyển đổi các Trung tâm Đăng kiểm tại Lạng Sơn, Gia Lai, Đắk Lắk thành công ty cổ phần, đội ngũ đăng kiểm viên, nhân viên nghiệp vụ của Trung tâm cũ nhanh chóng bị thay thế khỏi doanh nghiệp.
d) Cải thiện quản trị doanh nghiệp
Các đơn vị đã có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, tạo động lực thúc đẩy công tác điều hành quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc
Tiến độ triển khai các bước chuyển đổi còn chậm. Số lượng đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần chỉ chiếm 24,2% số lượng đơn vị SNCL được phê duyệt Danh mục chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020. Đến hết năm 2020, nhiều Bộ và địa phương vẫn chưa được phê duyệt được Danh mục đơn vị SNCL chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020. Số lượng đơn vị sự nghiệp kinh tế hoàn thành chuyển đổi chỉ chiếm 14,5% Danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần giai đoạn 2017-2020.
Quá trình chuyển đổi còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc: Quy hoạch mạng lưới hệ thống đơn vị SNCL, danh mục dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu; tiêu chí cụ thể phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các đơn vị SNCL theo ngành, lĩnh vực chậm triển khai thực hiện. Việc thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Việc xác định giá trị đơn vị sự nghiệp kinh tế khi thực hiện cổ phần hóa chưa sát với giá trị thực các tài sản của đơn vị. Quá trình chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần còn nhiều lúng túng, phương án sản xuất kinh doanh và phương án thực hiện chuyển đổi chưa phù hợp với kế hoạch hoạt động cung cấp dịch vụ của đơn vị sau khi chuyển đổi. Kết quả hoạt động sau chuyển đổi còn một số hạn chế, vướng mắc. Một số doanh nghiệp chuyển đổi từ các Trung tâm đăng kiểm tại các địa phương chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ, có biểu hiện vi phạm về tiêu chuẩn, thủ tục và cơ sở vật chất...
2.3.3. Nguyên nhân
Một là, một số nội dung của thể chế kinh tế nói chung, thể chế tổ chức và quản lý đơn vị SNCL nói riêng chưa bắt kịp đòi hỏi của thực tiễn và liên tục phải sửa đổi, bổ sung. “Công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn còn hình thức, thiếu khả thi và chưa sát với thực tế. Còn tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại. Việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các UBND tỉnh, thành phố, Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định về sắp xếp lại, xử lý tài sản công còn chưa tốt, tiến độ tham gia ý kiến, phê duyệt còn chậm” . Lãnh đạo của nhiều đơn vị sự nghiệp kinh tế còn nặng tư duy bao cấp, không muốn thực hiện chuyển đổi.
Hai là, khuôn khổ pháp lý về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần còn thiếu đồng bộ, nhiều bất cập.
Ba là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế, khai thác nguồn lực, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong tình hình mới.
Bốn là, thời gian hoàn thành lộ trình tính đủ giá bị chậm (theo quy định đến hết năm 2021 cơ bản hoàn thành lộ trình tính đủ giá dịch vụ SNC) do các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực chậm sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật
Năm là, việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa... chưa được quan tâm đúng mức,
Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN MỘT SỐ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KINH TẾ THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN
3.1. Bối cảnh và định hướng chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
3.1.1. Bối cảnh chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Sau gần 30 năm đổi mới, kinh tế hỗn hợp đang được hình thành và từng bước phát triển mạnh; chế độ cổ phần đang dần trở thành hình thức tổ chức chủ yếu của kinh tế công hữu.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản”
Chuyển giao các nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước cho khu vực ngoài nhà nước đủ năng lực thực hiện tác động đến hệ thống các đơn vị SNCL. Các dịch vụ công không nhất thiết phải được trực tiếp cung ứng bằng các đơn vị SNCL, hoàn toàn dựa NSNN mà cần có sự chuyển đổi phù hợp.
Với quyết tâm chính trị cao trong tổ chức lại hệ thống đơn vị SNCL, nâng cao hiệu quả chi ngân sách, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổ chức lại hệ thống các đơn vị SNCL. Việc tổ chức lại không chỉ là quy hoạch lại mạng lưới, giảm số lượng đơn vị SNCL mà còn thay đổi về mô hình, phương thức hoạt động.
Cổ phần hoá các đơn vị SNCL, trước hết là các đơn vị sự nghiệp kinh tế vừa phù hợp với xu thế đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, vừa kế thừa được những kinh nghiệm quý báu của quá trình 30 năm thực hiện cổ phần hoá của nước ta.
Quá trình hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, nhà nước không trực tiếp bao cấp tất cả các dịch vụ kinh tế. Cổ phần hoá đơn vị SNCL, trước hết là các đơn vị sự nghiệp kinh tế là một minh chứng cho nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế.
3.1.2. Định hướng chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
a) Chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế phải gắn với việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống đơn vị SNCL và đồng bộ với đổi mới tổ chức, hoạt động của các đơn vị SNCL
b) Chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần phải tạo điều kiện phát triển thị trường dịch vụ SNC và thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp kinh tế
c) Chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần phải trên cơ sở hoàn thiện thể chế quản lý đối với các đơn vị SNCL nói chung đơn vị sự nghiệp kinh tế.
3.2. Một số giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
3.2.1. Tiếp tục, rà soát phân loại các đơn vị sự nghiệp kinh tế phù hợp với yêu cầu chuyển thành công ty cổ phần
Việc xác định đúng đối tượng là nguyên tắc đầu tiên cần quán triệt khi cổ phần hóa một số đơn vị sự nghiệp kinh tế. Về nguyên tắc, chỉ các lĩnh vực dịch vụ công nào sau một thời gian, xã hội có thể hoàn toàn đảm nhiệm được và người dân có thể chấp nhận được với giá cả thị trường (có thể tính đủ chi phí và có tích lũy cho đơn vị cung cấp dịch vụ) thì mới nên đưa vào diện cổ phần hóa. Mặt khác, việc cổ phần hóa nên tiến hành đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã có thị trường cạnh tranh hoặc có thể hình thành thị trường cạnh tranh sau khi cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp kinh tế. Theo đó, đối với những lĩnh vực dịch vụ SNC mang tính chất độc quyền (đặc biệt là những dịch vụ liên quan đến cơ sở hạ tầng công cộng, các tài sản kết cấu hạ tầng ảnh hưởng đến an ninh – quốc phòng) thì chưa nên thực hiện chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
Các Bộ, ngành có liên quan khẩn trương xây dựng Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện việc chuyển đổi thành công ty cổ phần đối với các đơn vị sự nghiệp kinh tế hoạt động trong 04 ngành, lĩnh vực, gồm: Kiểm định an toàn lao động; Kiểm định xây dựng; Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện thủy; sản xuất, lưu giữ giống gốc cây trồng, vật nuôi theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó làm rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế; trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất những giải pháp cụ thể, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo hướng:
Trường hợp các đơn vị sự nghiệp kinh tế cung ứng các dịnh vụ, sản phẩm mà khu vực thị trường có thể bảo đảm hoàn toàn, cần nghiên cứu có chế chuyển giao hoàn toàn cho thị trường. Ví dụ đối với các nhà khách, nhà nghỉ thuộc các bộ, ngành, tỉnh uỷ, UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện có thể bán, khoán, cho thuê theo hình thức đấu thầu công khai, minh bạch để các chủ đầu tư mới có thể nâng cấp, cải tạo vừa tăng được nguồn thu cho NSNN, vừa khắc phục tình trạng lãng phí đất đai và cơ sở vật chất.
Căn cứ quy định tại Nghị định 150/2020/NĐ-CP và Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần, đề nghị đẩy mạnh thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần theo Danh mục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó tập trung yêu cầu các đơn vị sự nghiệp kinh tế chủ động rà soát vướng mắc về tài sản, đất đai, tài chính đề xuất cơ quan đại diện chủ sở hữu phương án xử lý; thay đổi bộ máy, cơ cấu quản lý hành chính, nhân sự, tài chính phù hợp với mô hình quản lý của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đối với các đơn vị không đáp ứng điều kiện quy định tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP: Sau khi Chính phủ ban hành danh mục SNC cơ bản, thiết yếu thuộc ngành lĩnh vực, các đơn vị chủ động theo dõi, cập nhật và khi đảm bảo các tiêu chí quy định tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP của Chính phủ thì kịp thời xây dựng Đề án tổ chức lại các đơn vị SNCL theo quy định.
Đối với các đơn vị SNCL khác (không cung ứng dịch vụ SNC cơ bản, thiết yếu): Rà soát, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ theo hướng tự đảm bảo chi thường xuyên trở lên và chuyển thành công ty cổ phần khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định số 150/2020/NĐ-CP ngày 25/12/2020 của Chính phủ về chuyển đơn vị SNCL thành công ty cổ phần và Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
Mặc dù khung pháp lý về chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần từng bước được hoàn thiện, tuy nhiên, một số nội dung pháp luật cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến giá dịch vụ SNC, bảo đảm cơ chế tính đúng, tính đủ đối với giá dịch vụ SNC do các đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển đổi thành công ty cổ phần cung ứng.
Thứ hai, phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ phục vụ quản lý do Nhà nước giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp kinh tế.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định về xác định giá trị của đơn vị SNCL khi chuyển đổi để đảm bảo quá trình chuyển đổi đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần, các giá trị được tính toán, định giá hợp lý, phù hợp với giá trị thường, không cao hơn cũng như không thấp hơn giá trị thực
Thứ tư, một điều kiện để được quyết định chuyển thành công ty cổ phần là phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. Tuy nhiên đây là vấn đề phức tạp, nhiều vướng mắc do không thống nhất trong cách hiểu và áp dụng khi lập phương án sắp xếp lại, xử lý nhà đất và phương án sử dụng đất. Do đó, đối với phương án sử dụng đất: đơn vị SNCL chuyển đổi phải được phê duyệt phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định công bố giá trị đơn vị sự nghiệp kinh tế.
Thứ năm, phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh thẩm quyền phê duyệt danh mục các đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần theo các điều kiện đã được pháp luật quy định. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm cho các Bộ chuyên ngành trong việc tổ chức thực hiện, theo dõi, đánh giá những khó khăn, vướng mắc của các đơn vị sự nghiệp kinh tế trong các ngành, lĩnh vực được giao phụ trách khi thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, kiến nghị các cấp có thẩm quyền các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc tổ chức, thực hiện và đảm bảo chất lượng, dịch vụ tại các đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển đổi.
3.2.3. Xây dựng cơ chế giám sát chất lượng và hiệu quả hoạt động sau khi chuyển thành công ty cổ phần
Việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần cần có sự giám sát chặt chẽ trước, trong và sau quá trình chuyển đổi, nhất là về quy mô vốn; hiệu quả sản xuất, kinh doanh; khả năng cạnh tranh trên thị trường dịch vụ SNC… Nghiên cứu vận dụng các tiêu chí đánh giá đối với doanh nghiệp để giám sát hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển đổi gồm 05 tiêu chí: 1) Doanh thu; 2) Lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu; 3) Nợ phải trả quá hạn, khả năng thanh toán nợ đến hạn; 4) Chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, pháp luật về thuế và các khoản thu nộp ngân sách khác, quy định về chế độ báo cáo tài chính và báo cáo để thực hiện giám sát tài chính; 5) Tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích.
Cần có cơ chế giám sát sau chuyển đổi đơn vị SNCL thành công ty cổ phần chặt chẽ để không thất thoát vốn, không thực hiện đúng cam kết đối với người lao động sau chuyển đổi.
3.2.4. Nâng cao năng lực quản trị đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển thành công ty cổ phần
Để đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển thành công ty cổ phần vận hành có hiệu quả, cần phải đổi mới và nâng cao năng lực quản trị. Đổi mới phương thức quản trị đơn vị sự nghiệp kinh tế gắn tiêu chí quản trị doanh nghiệp, hiệu quả về kinh tế song hành với các hiệu quả xã hội. Nâng cao chất lượng quản trị tài chính, tài sản công của đơn vị; ban hành quy chế quản lý tài chính, tài sản công, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu; hoàn thiện chế độ kế toán, thực hiện chế độ kiểm toán, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động tài chính của đơn vị SNCL… Sử dụng có hiệu quả đội ngũ viên chức của đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển đổi, đảm bảo sự gắn bó và sự thích ứng của đội ngũ này khi có sự chuyển về cơ chế tổ chức và hoạt động.
3.2.5. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển thành công ty cổ phần
Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp kinh tế được chuyển đổi thành công ty cổ phần cần phải có trách nhiệm với phần vốn cổ phần của Nhà nước, trách nhiệm với các cổ đông và sự phát triển của công ty cổ phần. Cần phải thay đổi tâm thế của người quản lý đơn vị sự nghiệp kinh tế từ người đứng đầu đơn vị sự nghiệp với sự đảm bảo từ cơ chế hỗ trợ của nhà nước với trách nhiệm của người đứng đầu trong việc cạnh tranh cung ứng dịch vụ SNC.
3.2.6. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công
Xã hội hóa tiến hành một cách toàn diện, không chỉ ở phương diện tài chính mà còn ở cả phương diện phi tài chính. Đó là đa dạng hóa các chủ thể cung ứng dịch vụ SNC, với sự tham gia của cả khu vực công, khu vực tư và các tổ chức xã hội, các tổ chức cộng đồng nhằm huy động nguồn lực thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển dịch vụ xã hội, có thể góp vốn tài chính hoặc góp vốn dưới các hình thức khác nhau, như đất đai, tài sản hữu hình và vô hình. Bên cạnh đó là xã hội hóa các chủ thể kiểm định chất lượng dịch vụ, bảo đảm các tổ chức xã hội tham gia đánh giá chất lượng ngay trong quy trình tạo ra sản phẩm dịch vụ; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong giám sát, giám định, phản biện hoạt động của các cơ sở cung ứng dịch vụ SNC; tạo điều kiện cho các tổ chứuc hội đại diện cho quyền lợi người tiêu dùng đánh giá chất lượng dịch vụ một cách công khai, minh bạch.
3.3. Điều kiện đảm bảo thực hiện các giải pháp chuyển một số đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần
3.3.1. Điều kiện về truyền thông chính sách
Quán triệt phương châm truyền thông về chính sách, pháp luật phải đi trước một bước để thống nhất nhận thức, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Theo đó, truyền thông chính sách về chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành cổ phần phải làm rõ mục đích của việc chuyển đổi này là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC, góp phần tổ chức lại hệ thống đơn vị SNCL, từ đó vừa tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện, vừa tạo điều kiện cho người dân phản biện và giám sát quá trình thực hiện.
3.3.2. Điều kiện về lộ trình chuyển đổi
Nghiên cứu áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp trước khi chuyển đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần.
Thực hiện đa dạng hóa các chủ thể cung ứng dịch vụ SNC. Mở rộng hợp tác công tư trong phát triển dịch vụ SNC với nhiều hình thức đa dạng, như “đầu tư công, sử dụng tư”.
Để khuyến khích các đơn vị sự nghiệp kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường mới sau cổ phần hóa, cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường, cần có cơ chế đảm bảo tính ổn định của môi trường sản xuất - kinh doanh và cơ chễ hỗ trợ ngắn hạn đối với đơn vị SNCL sau chuyển đổi thông qua cơ chế Nhà nước tiếp tục đặt hàng cung cấp dịch vụ SNC khi đáp ứng các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
3.3.3. Điều kiện về cơ chế giám sát
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, điều kiện thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, nhất là cơ chế giám sát hiệu quả đảm bảo mục tiêu của quá trình chuyển đổi, phương án chuyển đổi được thực hiện hiệu quả, kịp thời có phương án tháo gỡ khi có khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển đổi, quá trình hoạt động của đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển đổi.
Xuất phát từ đặc thù cung ứng dịch vụ công và căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành để quy định trách nhiệm giám sát sau cổ phần hóa đối với đơn vị SNCL gồm cả cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị SNCL, Bộ quản lý ngành về dịch vụ SNC và cơ quan tổng hợp, báo cáo (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
3.3.4. Điều kiện về năng lực của đơn vị sự nghiệp kinh tế
Trên thực tế, đối với các đơn vị sự nghiệp kinh tế đang hoạt động có hiệu quả, việc chuyển thành công ty cổ phần có nhiều điều kiện thuận lợi, khả năng thích ứng cao. Ngược lại các đơn vị sự nghiệp kinh tế có năng lực cung ứng dịch vụ SNC hạn chế, khả năng chuyển đổi thành công ty cổ phần gặp nhiều khó khăn và sau khi chuyển đổi thì chậm thích ứng với cơ chế mới. Do đó phải nghiên cứu tạo cơ chế, chính sách nâng cao năng lực quản trị về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân lực và tài chính của đơn vị sự nghiệp kinh tế để bảo đảm điều kiện chuyển thành công ty cổ phần cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ SNC sau khi chuyển đổi.
KẾT LUẬN
Chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, quá trình chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần đã đạt mục tiêu trong việc xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, sự hài lòng của người dân về chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; giúp cải thiện quản trị và hiệu quả hoạt động của đơn vị cung cấp dịch vụ; thu hút thêm nguồn lực xã hội cho việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, giảm hỗ trợ của ngân sách nhà nước; nâng cao thu nhập cho người lao động, đào tạo và sắp xếp lại vị trí công việc phù hợp cho người lao động. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này vẫn còn những hạn chế về tiến độ triển khai các bước chuyển đổi còn chậm; phần lớn đơn vị sự nghiệp kinh tế chuyển đổi có quy mô nhỏ; quá trình chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần còn nhiều lúng túng, phải căn cứ các văn bản chỉ đạo cá biệt; phương án, hình thức cổ phần, phương án phát hành để thu hút vốn tại một số đơn vị sự nghiệp kinh tế chưa phù hợp với phương án sản xuất - kinh doanh sau cổ phần hóa; kết quả hoạt động sau cổ phần hóa còn một số tồn tại như có hiện tượng giảm chất lượng dịch vụ hoặc ngừng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công tại một số doanh nghiệp.
Để chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần có hiệu quả, cần có các giải pháp đồng bộ về mặt thể chế, tạo những điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi, có các giải pháp mang tính đệm nhằm khắc phục các rủi ro trong quá trình chuyển đổi, từng bước tạo sự thích ứng của đơn vị sự nghiệp kinh tế sau chuyển đổi với cơ chế thị trường. Cần tạo động lực và áp lực chuyển đổi đơn vị sự nghiệp kinh tế thành công ty cổ phần với việc xác định lộ trình chuyển đổi cho các loại hình đơn vị sự nghiệp kinh tế; nâng cao nhận thức của toàn xã hội, của lãnh đạo và viên chức trong các đơn vị sự nghiệp kinh tế về việc cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp kinh tế. Nâng cao hiệu quả giám sát nhằm đảm bảo các cam kết trong phương án chuyển đổi được thực hiện đúng và cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp kinh tế giúp cung ứng dịch vụ SNC hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân và xã hội./.
đơn vị sự nghiệp