
- Xây dựng quy trình chiết xuất cao định chuẩn từ củ ngải bún (boesenbergia pandurata) và đánh giá tác dụng dược lý theo định hướng sử dụng hỗ trợ điều trị bệnh viêm loét dạ dày
- Nghiên cứu quy trình công nghệ khai thác các hoạt chất sinh học từ sao biển để sản xuất thực phẩm chức năng
- Nghiên cứu mô hình hoạt động của cơ quan điều phối chính sách đổi mới sáng tạo ở một số quốc gia và gợi suy cho Việt Nam
- Xây dựng mô hình dự báo cá khai thác và các cấu trúc hải dương có liên quan phục vụ đánh bắt xa bờ ở vùng biển Việt Nam
- Xây dựng chiến lược truyền thông ngành Bảo hiểm xã hội giai đoạn 2020-2025
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các quy trình phân tích các nhóm nguyên tố urani thori và đất hiếm trong đất đá nước trên hệ thiết bị ICP-MS Agilent 7700x
- Xây dựng hệ thống thông tin địa lý phục vụ quản lý tài nguyên và giám sát môi trường huyện Long Hồ và Bình Minh tỉnh Vĩnh Long
- Nghiên cứu khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn ở Việt Nam
- Nghiên cứu so sánh khảo nghiệm chọn lọc tập đoàn giống lúa ở các vùng sinh thái tỉnh Nam Định năm 2001
- Nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi ghép cá măng (Chanos chanos) với tôm sú tại tỉnh Trà Vinh



- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
958/GCN-KQNV
Nghiên cứu đặc điểm dịch tế gen bệnh thalassemia của người dân tộc Tày Nùng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lạng Sơn
UBND Tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh/ Thành phố
BSCKII. Phan Thanh Huy
BSCKII. Phan Thanh Huy; BSCKI. Phạm Thế Vinh; CN. Lục Thị Ngọc Hoài; BSCKII. Nguyễn Thế Toàn; GS. Nguyễn Anh Trí; ThS. Ngô Huy Minh; CN. Đỗ Khải Hoàn; BSCKI. Hoàng Mạnh Cương; CN. Nguyễn Hồng Đăng; BS. Nông Thị Nòm
Khoa học y, dược
01/12/2017
01/06/2019
2019
Lạng Sơn
68 tr
2. Đề xuất một số giải pháp khả thi phòng ngừa, hạn chế tác hại và phát tán bệnh Thal trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Tỷ lệ mang gen Thal chung của người dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn là 27,5%, cao hơn tỷ lệ mang gen chung của các dân tộc ít người sống chủ yếu ở Trung du và miền núi phía Bắc là 16,89%. Sự khác biệt về tỷ lệ mang gen bệnh giữa 2 dân tộc không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó căn bệnh này còn hầu như chưa được quan tâm tại Lạng Sơn.
- Thal là bệnh di truyền có phân bố khá đồng đều trong cộng đồng 2 dân tộc Tày, Nùng dù ở các địa bàn khác nhau. Giới tính không liên quan với tình trạng mang gen bệnh Thal. Do đó cần chú trọng quản lý, truyền thông trong toàn tỉnh và cả đối tượng nam vẫn hay bỏ quên trong các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản.- Ở người dân tộc Tày và Nùng tại Lạng Sơn, kết quả nghiên cứu cho thấy ngoài sự tương đồng về các kiểu gen bệnh, tỷ lệ các thể gen bệnh cũng tương đồng với các dân tộc ít người Trung du và miền núi phía Bắc, Nam Trung Quốc và có sự khác biệt rõ rệt với các dân tộc ở miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Ở người Tày, Nùng của Lạng Sơn, tỷ lệ và các thể đột biến gen α và β Thal có sự tương đồng với đột biến của các dân tộc ít người ở Trung du, miền núi phía Bắc và khác biệt rõ rệt với Miền Trung – Tây Nguyên và Miền Nam. Các đột biến Thái và Fil không gặp ở dân tộc Nùng, dân tộc Tày có gặp đột biến Thái nhưng tỷ lệ rất thấp.
Bệnh thalassemia; Y dược
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn
LSN-2019-007