- Nghiên cứu thực trạng công tác y tế trường học ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô hình quản lý phù hợp
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp bảo vệ bản quyền báo chí ở Việt Nam trong thời đại số
- Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2021: Tác động và kiến nghị chính sách
- Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy điện một chiều công suất đến 200 KW - Thử nghiệm
- Nghiên cứu chọn tạo giống lúa thâm canh và lúa chất lượng cho vùng đồng bằng sông Hồng
- Mua sắm thiết bị và nâng cấp hệ thống mạng công nghệ thông tin Văn phòng Tỉnh ủy Cần Thơ năm 2002
- Quy trình soạn thảo ban hành văn bản pháp quy của Ủy Ban nhân dân Tp Hồ Chí Minh
- Nghiên cứu chế tạo vật liệu và thiết bị quang xúc tác sử dụng ánh sáng mặt trời để xử lý các chất ô nhiễm gây mùi trong không khí
- Nghiên cứu chế tạo và đưa vào sản xuất điốt nắn điện vỏ nhựa loại 10 ampe
- Nghiên cứu thực trạng nhu cầu và đề xuất giải pháp phát triển tài sản trí tuệ (sáng chế kiểu dáng công nghiệp nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý) của doanh nghiệp Việt Nam nhằm phục vụ xây dựng chiến lược quốc gia về sở hữu trí tuệ đến năm 2030
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
ĐTKXLC.11/17
39/KQNC
Nghiên cứu thực trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng đồng bào dân tộc ít người trên địa bàn tỉnh Lai Châu
Trường Đại học Y tế Công cộng
Bộ Y tế
Tỉnh/ Thành phố
PGS.TS Lã Ngọc Quang
PGS.TS. Lã Ngọc Quang; ThS. Dương Kim Tuấn; TS. Dương Đình Đức; TS. Đặng Vũ Phương Linh; CN. Nguyễn Văn Tuấn; BS.CK 2. Phạm Văn Mẫn; KS. Tạ Anh Hà; TS. Phạm Văn Tân; CN. Lò Thị Duyên; ThS. Lê Thị Thắm
Y tế
01/07/2017
01/10/2019
2020
Hà Nội
200
Theo số liệu từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, cả nước có 9 tỉnh có trên 5% dân số nam 15 - 19 tuổi và 14 tỉnh có trên 5% dân số nữ 15 - 17 tuổi đã từng kết hôn. Tình trạng kết hôn của riêng nữ cũng tương tự, 23/63 tỉnh có trên 10% dân số nữ 15 - 19 tuổi đang hoặc đã từng có chồng. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là nhưng tỉnh miền núi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Kon Tum. Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển dân số thuộc Tổng cục DS - KHHGĐ, ở một số dân tộc thiểu số như Lô Lô, Hà Nhì, Chứt, Phù Lá, Ê Đê, Chu Ru, Si La, Pu Péo, Mông, Rơ Mân, Brâu… cứ 100 trường hợp kết hôn thì trung bình có 10 trường hợp hôn nhân cận huyết thống [1].
Năm 2012, Tổng cục DS - KHHGĐ thực hiện khảo sát tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở 44 xã của 9 huyện thuộc tỉnh Lào Cai, phát hiện 224 cặp kết hôn cận huyết. Trong đó, có 221 cặp là con bác lấy con dì; con chị gái lấy con em trai; cháu lấy dì; chú lấy cháu; cháu lấy cô [1]. Năm 2012, Chi cục Dân số - KHHGĐ tỉnh Kon Tum tiến hành khảo sát tại 6 xã thuộc 3 huyện Sa Thầy, Ngọc Hồi và Kon Plông đã phát hiện trên 350 cặp tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, trong đó có 56 cặp hôn nhân cận huyết. Nhiều chuyên gia dân số nhận định, nếu khảo sát ở các tỉnh miền núi Tây Bắc và các vùng đồng bào dân tộc ở miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Nam Bộ… thì cũng sẽ cho kết quả tương tự [1].
Nghèo đói, thiếu ăn, thiếu mặc, không có việc làm và tương lai mù mịt phía trước, tất cả những điều này đã trở thành một vòng luẩn quẩn ở các làng, bản, thôn, buôn có tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống cao tại vùng dân tộc thiểu số. Theo điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2015 của Ủy ban Dân tộc cho thấy, tỷ lệ tảo hôn chung của các dân tộc thiểu số rất cao, lên đến 26,6%. Đặc biệt, một số dân tộc có tỷ lệ tảo hôn trên 30% như: Mông 59,7%, Xinh Mun 56,3%, La Ha 52,7%, Gia Rai 42%, Raglay 38,3%, Bru-Vân Kiều 38,9%... Hôn nhân cận huyết thống có tỷ lệ 0,65%, tồn tại chủ yếu ở một số dân tộc có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và sống biệt lập như Mạ (4,41%), Mảng (4,36%), Mông (4,02%), Xtiêng (3,67%)… [3].
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tỷ lệ khám chữa bệnh, bạo lực gia đình, nhóm máu, nghi ngờ hôn nhân cận huyết, đăng ký kết hôn
Trung tâm Kiểm định và Phát triển KHCN Lai Châu - ĐT
LCU- KQNC-2021-024