liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  13079543
  • Kết quả thực hiện nhiệm vụ

1821/KHXH

Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hoá thời Tiền - Sơ sử vùng lòng hồ Thuỷ điện Hoà bình (địa bàn tỉnh Sơn La)

Bảo tàng tỉnh Sơn La

UBND Tỉnh Sơn La

Tỉnh/ Thành phố

ThS. Lưu Thị Hải Anh

PGS.TS. Nguyễn Khắc Sử; CN. Phạm Văn Tuấn; ThS. Lường Ngọc Ánh; CN. Lò Văn Thanh; PGS.TS. Nguyễn Lân Cường; CN. Nguyễn Thị Hồng Phương; TS. Lê Hải Đăng ;ThS. Nguyễn Thị Hải Dương; ThS. Ngô Hải Yến

Khoa học xã hội

01/07/2019

01/06/2021

2021

Bảo tàng tỉnh Sơn La

5.1 Kết quả triển khai điền dã thực địa, đề tài đã xác nhận hiện nay trong vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình trên đất Sơn La có 3 loại di chỉ: Loại 1 gồm 6 di chỉ: Bản Phố, Cụm Đồn, Sập Việt, Tà Tù, Tạ Khoa và Chà Lai đều bị ngập sâu dưới mực nước lòng hồ, không thể khai quật, nghiên cứu tiếp trong tương lai. Cũng thuộc loại này còn 2 di chỉ Hang Chướng và Mái đá Bản Chượp không bị ngập nước, nhưng đã bị xâm hại hoàn toàn, không thể nghiên cứu được. Tư liệu khảo cổ từ các di chỉ này rất quan trọng trong nghiên cứu tiền sử Sơn La, được đề tài khai thác, chắt chiu từ các báo cáo cũ và các hiện vật còn sót lại. Loại 2 gồm 10 di chỉ: Thẩm Puốc, Hang Tống, Hang Cáng (huyện Bắc Yên), Hang Diêm (Phù Yên), Hang Pông I, Hang Pông II, Hang Pông IV, Hang Bó Hiềng, Hang Coong (Vân Hồ) và hang Cò Lằn (Mai Châu) được phát hiện trước đây, đến nay chưa bị ngập nước, vẫn có thể tiếp tục khai quật và nghiên cứu được.  Loại 3 gồm các di chỉ hang động mới phát hiện trong đợt khảo sát 5-2020, đó là di chỉ hang Bệnh Viện, hang Thẩm Ké và Hang Tắng (huyện Yên Châu). Trong đó di chỉ Hang Tắng là di chỉ đặc biệt quan trọng, đã được đoàn chủ động thám sát, thu được  khối lượng tư liệu phong phú, đa dạng là nguồn tư liệu mới, bổ sung cho công cuộc nghiên cứu tiền - sơ sử vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình.
5.2. Đề tài đã hệ thống hóa khá đầy đủ tư liệu khảo cổ vùng lòng hồ , triển khai điền dã, thu thập bổ sung thêm nhiều hiện vật giúp cho việc trưng bày Bảo tàng tỉnh sắp tới cũng như bổ sung tư liệu nghiên cứu, biên soạn lịch sử thời kỳ nguyên thủy Sơn La, góp phần làm rõ 3 giai đoạn lớn dưới đây:
- Những cư dân đầu tiên chiếm cư thềm cổ sông Đà là ở các di chỉ: Bản Phố, Cụm Đồn (Bắc Yên), rồi các hang động huyện Vân Hồ như Hang Pông I, Hang Pông II, kéo dài từ 30.000 đến 11.000 năm cách ngày nay, thuộc phạm trù hậu kỳ thời đại Đá cũ…
- Bước sang giai đoạn sơ kỳ Đá mới, niên đại từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay, hầu hết cư dân thời này trên lãnh thổ Bắc Việt Nam đều cư trú trong hang động hoặc mái đá, trong khi đó ở vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình (trên đất Sơn La) duy nhất có cư dân Sập Việt cư trú ngoài trời trên thềm cổ sông Đà (Các di tích Hòa Bình ngoài trời khác còn gặp là di chỉ Pá Màng 1 ở Quỳnh Nhai, Sơn La; di chỉ Mậu A, tỉnh Yên Bái)...
- Ở Sơn La hầu như vắng mặt các di tích đặc trưng cho trung kỳ Đá mới như kiểu văn hóa Đa Bút, văn hóa Cái Bèo, văn hóa Quỳnh Văn, vốn tồn tại ở vùng đồng bằng ven biển Việt Nam. Nhưng ở vùng núi Sơn La, cư dân hậu kỳ Đá mới bắt đầu mở rộng địa bàn cư trú, xuất hiện kỹ thuật chế tác các loại rìu mài toàn thân, đặc biệt xuất hiện các công xưởng chế tác rìu tứ giác, chế tác vòng tay. Nhờ đó, sự phát triển tương đối đồng đều giữa các nhóm cư dân trong vùng núi Sơn La được thiết lập...
5.3 Trong quá trình tồn tại và phát triển, cư dân tiền - sơ sử vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình trên đất Sơn La đã để lại cho các thế hệ hôm nay những giá trị di sản văn hóa nổi bật về sự tương thích của con người với sự biến động khắc nghiệt của môi trường, được thể hiện rõ qua các tổ hợp công cụ lao động bằng đá, bằng xương, bằng đồng, các dụng cụ lao động và các loại hình đồ đựng, đồ đun nấu bằng đất nung phù hợp với miền núi Sơn La. Trong quá trình tồn tại, cư dân vùng núi Sơn La không khép kín, mà giao lưu cởi mở với khu vực xung quanh, đặc biệt đóng góp vào sự hội tụ văn hóa, văn minh Việt Nam.
5.4 Các di chỉ khảo cổ học tiền và sơ sử Sơn La nói chung và vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình trên đất Sơn La nói riêng, không chỉ là nguồn sử liệu biên soạn thời kỳ nguyên thủy ở địa phương, mà còn là tài nguyên du lịch của tỉnh. Cho nên, chúng ta cần có những giải pháp hữu hiệu để bảo tồn và phát huy di sản khảo cổ trong giai đoạn hiện nay…
 

Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hoá thời Tiền - Sơ sử vùng lòng hồ Thuỷ điện Hoà bình

1821/KHXH