
- Nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu mặn bằng chỉ thị phân tử cho vùng đồng bằng sông Hồng
- Triển khai công nghệ chế tạo ferit từ mềm
- Ủy quyền lập pháp - Thực tiễn quốc tế và cơ chế thực hiện trong điều kiện của Việt Nam
- Nghiên cứu các giải pháp công nghệ cải tạo mạng phân phối và phát triển theo cấp 22KV (Báo cáo bước 1- Một số cơ sở áp dụng hệ thống phân phối 20KV ở Việt Nam)
- Giải quyết các quan hệ tộc người ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa- Các chuyên đề
- Chế biến nước giải khát nhãn lồng (Passiflora foetida) – tim sen (Embryo nelumbinis)
- Hoàn thiện công nghệ nhân giống và sản xuất thử nghiệm một số loài lan bản địa có giá trị kinh tế cao bằng nuôi cấy mô
- Nghiên cứu hoàn thiện và phát triển quy trình công nghệ nuôi tôm nước lợ hiệu quả cao bền vững ở Việt Nam
- Nghiên cứu chế tạo vật liệu trên cơ sở thiếc ứng dụng làm vật liệu điện cực dung lượng cao cho nguồn điện hiện đại
- Nghiên cứu tình trạng nhiễm một số loài ký sinh trùng lây truyền từ động vật sang người trên địa bàn Hà Nội và đề xuất biện pháp phòng chống



- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
09/KQNC-TTKHCN
Tuyển chọn cây đầu dòng và một số biện pháp cải thiện năng suất và phẩm chất mít Ba Láng hạt lép tại quận Cái Răng thành phố Cần Thơ
Trường Đại Học Cần Thơ
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cơ sở
PGS.TS. Trần Văn Hâu
KS. Trần Thị Doãn Xuân; ThS. Phan Huỳnh Anh; KS. Lê Huỳnh Như; KS. Phạm Trường Thi; KS. Nguyễn Văn Giữ; KS. Huỳnh Văn Út;
Khoa học nông nghiệp
08/2011
07/2014
2014
Thành phố Cần Thơ
96
Mít (Artocarpus heterophyllus Lam.) có nguồn gốc từ Ấn Độ, được xem là cây có kích thước trái lớn nhất và cho năng suất cao hơn các loại cây ăn trái khác. Mít thích hợp với khí hậu nhiệt đới nên được trồng nhiều ở các nước như Ấn Độ, Bangladesh, Mã Lai, Thái Lan,... Năng suất mít dao động từ 1,3-27 tấn/ha. Các nước có năng suất mít cao trên thế giới như Bangladesh (10,5 tấn/ha), Ấn Độ (2-27 tấn/ha), Mã Lai (3-19 tấn/ha), Thái Lan (3-20 tấn/ha).
Ở nước ta có khoảng 10.300 ha trồng mít với sản lượng 109.600 tấn (Niên giám thống kê nông-lâm-nghiệp Việt Nam, trích dẫn bởi Hoàng Quốc Tuấn, 2011). Theo Nguy n n Đệ và ctv. (2007) ở miền ĐNB có khoảng 4.620 ha diện tích trồng mít nhưng diện tích còn nhỏ lẻ, trên 67 có diện tích nhỏ hơn 0,5 ha. Trước đây trái mít ch yếu d ng đ ăn tươi. Thời gian gần đây, mít được các c ng ty chế biến dạng sấy khô nên nhu cầu mít ngày càng tăng cao, nông dân đã trồng mít thành vườn chuyên canh tập trung với diện tích lớn. Do đó, công tác giống mít rất được quan tâm, phục vụ cho nhu cầu phát triển, mở rộng diện tích ngày càng tăng.
Họ dâu Tằm (Moraceae) có bốn loài trồng trọt trong đó có hai loài được trồng khá phổ biến để ăn tươi là mít chính danh (Artocarpus heterophyllus Lam.) hay mít Ta và mít Tố nữ (Artocarpus interger (Thumb.) Merr). Mít Ta có a giống trồng phổ biến là mít Dừa, mít Nghệ và mít Ướt, trong đó ở miền ĐNB, giống mít ừa có t lệ trên 99. Tuy nhiên, kết quả điều tra hiện trạng canh tác mít ở miền Đông Nam Bộ, ở miền Đông Nam Bộ nông dân trồng các giống mít Nghệ, mítDừa, mít Mã Lai, mít Tố Nữ , mít Ướt, trong đó nhiều nhất là mít ừa và mít Nghệ (35,0 và 32,5 theo thứ tự). Tuy nhiên, từ tháng 5/2010, thông qua hội thi Trái ngon - An toàn Nam Bộ lần II ở thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện ra giống mít có múi to, thịt cứng nhưng hạt lép và điểm đặc biệt là cả thịt múi và xơ đều có thể ăn được, tỉ lệ ăn được lên đến 80%. Giống mít này đạt giải ngon, lạ và hiếm. Tuy nhiên, giống mít này – Ba Láng hạt lép có nhược điểm là múi mít có màu vàng nhạt, độ ngọt không cao và có dạng trái hơi méo, sần sùi, không đẹp mắt. Đề tài "Tuyển chọn cây đầu dòng và một số biện pháp cải thiện năng suất và phẩm chất mít Ba Láng hạt lép tại Quận Cái Răng, Thảnh phố Cần Thơ” được thực hiện nhằm:
- Bình tuyẻn 2-3 cây đầu dòng phục vụ cho nhu cầu nhân giống, mở rộng diện tích.
- Xác định đặc điểm sinh học sự ra hoa và phát triển trái c a mít Ba Láng hạt lép làm cơ sở cho những nghiên cứu cải tiến năng suất và chất lượng.
- Xác định một số biện pháp cải thiện năng suất và phẩm chất mít Ba Láng hạt lép.
mít; Ba Láng; hạt lép
Trung tâm Thông tin KH&CN Cần Thơ
CTO-KQ2016-09/KQNC