
- Tuyên truyền phổ biến kiến thức về năng suất chất lượng thông qua việc tổ chức các hội nghị hội thảo; xuất bản và phát hành ấn phẩm năng suất chất lượng
- Hỗ trợ tổ chức doanh nghiệp phục hồi tăng trưởng năng suất trong và sau dịch covid – 19 thông qua hướng dẫn thực hành các giải pháp cải tiến năng suất chất lượng dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin
- Huy động các nguồn vốn tín dụng cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Tây Ninh đến năm 2025
- Đánh giá tác động ô nhiễm không khí lên sức khỏe sử dụng cách tiếp cận tích hợp từ công nghệ ảnh viễn thám
- Các pha tô pô trật tự tầm xa và đa thành phần trong các mô hình lượng tử
- Nghiên cứu phân tích ảnh cắt lớp CT sử dụng mạng nơ-ron tích chập ứng dụng trong can thiệp điều trị ung thư gan
- Đào tạo chuyên gia về Lean Six Sigma đai vàng đai xanh đai đen cho các doanh nghiệp và cán bộ tư vấn năng suất chất lượng tại các tổ chức sự nghiệp của các bộ ngành và địa phương
- Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị thử nghiệm chất lượng hình in trên sản phẩm dệt may phù hợp tiêu chuẩn DS096
- Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá liều dân chúng - Áp dụng thử nghiệm tại Hàng Gòn - Long Khánh tỉnh Đồng Nai
- Ứng dụng CNTT vào quản lý bệnh viện phụ sản Nam Định



- Ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ
48
Lựa chọn mô hình ứng dụng phục hồi san hô cứng tại Khu Ramsar Vườn quốc gia Côn Đảo
Ban quản lý Vườn Quốc gia Côn Đảo
Tỉnh/ Thành phố
TS. Võ Sĩ Tuấn
PGS.TS. Võ Sĩ Tuấn; TS. Hoàng Xuân Bền; KS. Phan Kim Hoàng; KS. Nguyễn Đức Thắng; KS. Lê Hồng Sơn; KS. Nguyễn Văn Vững; KS. Nguyễn Phùng Hùng; Nguyễn Duy Thành; Nguyễn Sĩ Toàn; Nguyễn Văn Trà
Khoa học công nghệ thuỷ sản khác
05/2018
08/2020
22/04/2021
48
14/12/2021
Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
phục hồi; san hô cứng; Khu Ramsar; Vườn quốc gia Côn Đảo
Ứng dụng
Dự án KH&CN
Đối với san hô phục hồi trên nền đáy tự nhiên ở Đát Dốc và Tây Nam Hòn Tài (trên 4.400 tập đoàn), tỉ lệ sống trung bình của 5 loài san hô phục hồi gồm Acropora grandis, Acropora hyacinthus, Acropora robusta, Acropora millepora và Acropora formosa tương ứng là là 82,1% và 82,9%. Trong khi đó, phục hồi trên nền đáy nhân tạo là các bồn bê tông (trên 1.600 tập đoàn) cho tỷ lệ sống cao hơn (85,6% đối với 3 loài Acropora grandis, Acropora robusta và Acropora formosa). Thử nghiệm phục hồi một số san hô cứng có hình dáng và mằu sắc đẹp cũng cho tỷ lệ sống 100%. Tốc độ tăng trưởng trung bình/tháng của ba loài Acropora formosa, Acropora robusta và Acropora grandis tại Đát Dốc lần lượt là 0,82cm, 0,89cm và 0,5cm. Đối với khu vực Hòn Tài, tốc độ tăng trưởng trung bình/tháng của ba loài này lần lượt là 0,81cm, 0,62cmvà 0,47cm. Trên giá thể nhân tạo, tốc độ tăng trưởng trung bình của loài Acropora formosa cao hơn so với loài A.grandis với giá trị tương ứng là 0,88 cm/tháng và 0,74 cm/tháng, Các giá trị này chứng tỏ rằng san hô cành phục hồi ở Côn Đảo đã phát triển tốt.
Hoạt động phục hồi san hô cứng trong khôn khổ dự án đã góp phần cải thiện 3 vùng rạn thông qua làm gia tăng độ phủ của san hô, gia tăng giá bám bền vững cho san hô tái phục hồi và tạo môi trường ổn định cho sự phát triển của quần xã sinh vật rạn. Dự án đã đạt các tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả san hô phục hồi bao gồm: tỉ lệ sống, tốc độ tăng trưởng của các tập đoàn san hô và các đặc điểm về sinh cảnh của vùng phục hồi như sự thay đổi độ phủ của các hợp phần đáy, sự xuất hiện của các loài có giá trị kinh tế, sinh thái, sự gia tăng mật độ cũng như kích thước của quần xã sinh vật rạn.