Các nhiệm vụ khác
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  13079543
  • Ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ

48

Lựa chọn mô hình ứng dụng phục hồi san hô cứng tại Khu Ramsar Vườn quốc gia Côn Đảo

Ban quản lý Vườn Quốc gia Côn Đảo

Tỉnh/ Thành phố

TS. Võ Sĩ Tuấn

PGS.TS. Võ Sĩ Tuấn; TS. Hoàng Xuân Bền; KS. Phan Kim Hoàng; KS. Nguyễn Đức Thắng; KS. Lê Hồng Sơn; KS. Nguyễn Văn Vững; KS. Nguyễn Phùng Hùng; Nguyễn Duy Thành; Nguyễn Sĩ Toàn; Nguyễn Văn Trà

Khoa học công nghệ thuỷ sản khác

05/2018

08/2020

22/04/2021

48

14/12/2021

Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Kỹ thuật phục hồi trên giá thể nhân tạo: Tại bãi Cát Lớn hòn Bảy Cạnh đã phục hồi 1.600 tập đoàn san hô trên 150 bồn bê tông với diện tích 01 ha. Tỷ lệ sống >80 2 Kỹ thuật phục hồi trên nền đáy tự nhiên: Tại vùng biển Đất Dốc và phía Nam Hòn Tài đã phục hồi 4.400 tập đoàn san hô trên nền rạn san hô chết với diện tích 02 ha. Tỷ lệ sống >80%. Thông qua tập huấn đào tạo và thực hành, dự án đã hỗ trợ BQL Vườn Quốc gia Côn Đảo nâng cao năng lực và từ nay đơn vị có thể tổ chức phục hồi san hô cứng với nguồn nhân lực tại chỗ là nhân viên của mình và các đối tác từ cộng đồng địa phương.. Hiện nay, Vườn quốc gia Côn Đảo đang tiếp tục quản lý, bảo vệ và chăm sóc: thường xuyên kiểm tra theo dõi tình sinh trưởng và phát triển của san hô, thu gom, cắt gỡ những rác nhựa đại dương mắc vào san hô sau phục hồi cũng như quản lý mô hình tại các điểm nói trên Đề tài không có chuyển giao công nghệ.
BTU-2021-004
Do sản phẩm của dự án mang tính đặc thù riêng. Vì vậy, sự thành công của mô hình phục hồi rạn san hô ở Côn Đảo góp phần mang lại hiệu quả về mặt kinh tế xã hội bao gồm: - Tái tạo lại đa dạng sinh học cho môi trường biển, cải thiện chất lượng môi trường và tăng khả năng phục hồi nguồn lợi đặc biệt là những nguồn lợi có giá trị kinh tế cao - Nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cho cộng đồng dân cư và các nhà quản lý địa phương - Phát triển ngành du lịch biển cho địa phương, đa dạng hóa sản phẩm du lịch và tạo công ăn việc làm mới, tận dụng nguồn nhân lực dư thừa tại chỗ góp phần tăng nguồn thu nhập ổn định cho cộng đồng dân cư thông qua việc triển khai các mô hình trạng trại san hô. - Việc ứng dụng phục hồi san hô cứng tại khu Ramsar Vườn quốc gia Côn Đảo góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ bờ biển từ các dòng chảy và sóng mạnh. Chắn sóng, làm giảm tốc độ dòng chảy, cố định nền đáy, bảo vệ bờ biển, cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương sống đặc biệt là cá con sau khi lớn lên phát tán ra ngư trường, làm tăng thêm sản lượng cá cho cộng đồng ngư dân đánh bắt trên vùng biển Côn Đảo; - Phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, nơi tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái hiện nay, các rạn san hô Côn Đảo đang là thế mạnh để phát triển các loại hình du lịch lặn biển, khám phá đại dương và phát triển kinh tế - xã hội của huyện Côn Đảo. - Nền đáy cứng trên rạn là nơi mà nhiều sinh vật đáy đặc trưng như sò, trai, hải miên, huệ biển, hải quỳ và tảo bám sinh trưởng. Với những loài này rạn san hô là nơi ở bắt buộc. Nhiều loài khác coi rạn là nơi ở cấp thiết trong giai đoạn dễ bị đe dọa của chu trình sống và để kiếm ăn, đẻ trứng hoặc được coi là nơi ươm nuôi con non và trú ẩn. Việc thoát khỏi đe dọa nhờ nơi ở là cơ sở quan trọng duy trì nghề cá và giúp tránh khỏi sự tiêu diệt của các loài có giá trị cao. Rùa biển là một ví dụ về chức năng này của rạn san hô. Chúng là thành phần quan trọng của quần xã rạn san hô. Rùa Xanh đẻ trứng và ấp trứng trên bãi cát trên cạn. Đồi Mồi không di cư xa như Rùa Xanh và phân bố ở rạn nhiều hơn. Chúng đẻ trứng trên các bãi cát trộn với san hô chết, ăn ngủ trên các đảo có rạn riềm, các hang, hốc của rạn san hô.

phục hồi; san hô cứng; Khu Ramsar; Vườn quốc gia Côn Đảo

Ứng dụng

Dự án KH&CN

Đối với san hô phục hồi trên nền đáy tự nhiên ở Đát Dốc và Tây Nam Hòn Tài (trên 4.400 tập đoàn), tỉ lệ sống trung bình của 5 loài san hô phục hồi gồm Acropora grandis, Acropora hyacinthus, Acropora robusta, Acropora millepora và Acropora formosa tương ứng là là 82,1% và 82,9%. Trong khi đó, phục hồi trên nền đáy nhân tạo là các bồn bê tông (trên 1.600 tập đoàn) cho tỷ lệ sống cao hơn (85,6% đối với 3 loài Acropora grandis, Acropora robusta và Acropora formosa). Thử nghiệm phục hồi một số san hô cứng có hình dáng và mằu sắc đẹp cũng cho tỷ lệ sống 100%. Tốc độ tăng trưởng trung bình/tháng của ba loài Acropora formosa, Acropora robusta và Acropora grandis tại Đát Dốc lần lượt là 0,82cm, 0,89cm và 0,5cm. Đối với khu vực Hòn Tài, tốc độ tăng trưởng trung bình/tháng của ba loài này lần lượt là 0,81cm, 0,62cmvà 0,47cm. Trên giá thể nhân tạo, tốc độ tăng trưởng trung bình của loài Acropora formosa cao hơn so với loài A.grandis với giá trị tương ứng là 0,88 cm/tháng và 0,74 cm/tháng, Các giá trị này chứng tỏ rằng san hô cành phục hồi ở Côn Đảo đã phát triển tốt.

Hoạt động phục hồi san hô cứng trong khôn khổ dự án đã góp phần cải thiện 3 vùng rạn thông qua làm gia tăng độ phủ của san hô, gia tăng giá bám bền vững cho san hô tái phục hồi và tạo môi trường ổn định cho sự phát triển của quần xã sinh vật rạn. Dự án đã đạt các tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả san hô phục hồi bao gồm: tỉ lệ sống, tốc độ tăng trưởng của các tập đoàn san hô và các đặc điểm về sinh cảnh của vùng phục hồi như sự thay đổi độ phủ của các hợp phần đáy, sự xuất hiện của các loài có giá trị kinh tế, sinh thái, sự gia tăng mật độ cũng như kích thước của quần xã sinh vật rạn.