Thí nghiệm được thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ với ba lần nhắc lại trên tất cả các điểm và thời vụ. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất bắp tươi (NSBT) của giống VNUA141 trung bình cả ba vụ đạt 11,11 tấn/ha cao hơn so với giống đối chứng Fancy111 (10,85 tấn/ha) ở mức có ý nghĩa thống kê. Giống VNUA69 có NSBT trung bình cả ba vụ đạt 12,72 tấn/ha cao hơn có ý nghĩa thống kê so với giống đối chứng HN88 (11,76 tấn/ha). Trung bình cả ba vụ, giống VNUA141 có hiệu quả kinh tế (HQKT) đạt 35,27 triệu đồng/ha cao hơn đối chứng Fancy111 (30,40 triệu đồng/ha) ở mức có ý nghĩa thống kê. Giống VNUA69 có HQKT trung bình cả ba vụ đạt 42,94 triệu đồng/ha cao hon có ý nghĩa thống kê so với giống đối chứng HN88 (37,75 triệu đồng/ha). Kết quả mô hình AMMI cho thấy giống, thời vụ và sự tưong tác giữa giống x thời vụ có tác động đáng kể đến NSBT của các giống thí nghiệm. Ảnh hưởng của giống chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng bình phương phương sai so với ảnh hường của thời vụ và tương tác giống x thời vụ. HQKT của một giống ngô nếp phụ thuộc lớn vào thời vụ trồng và sau đó là bản chất của giống canh tác. Giống VNUA141 và VNUA69 biểu hiện tiềm năng năng suất và hiệu quả kinh tế ổn định tại tất cả các điểm và mùa vụ tại Hải Dương cho thấy ưu thế của các giống ngô nếp chọn tạo trong nước có tính ổn định và thích nghi cao.