Lọc theo danh mục
  • Năm xuất bản
    Xem thêm
  • Lĩnh vực
liên kết website
Lượt truy cập
 Lượt truy cập :  14,850,375

BB

Mai Kiên Định, Nguyễn Hải Anh, Nguyễn Hoàng Anh, Dư Văn Toán; Nguyễn Hải Anh(1)

Thành phần loài động vật phù du vịnh Đà Nẵng

Tạp chí Môi trường - Chuyên đề Khoa học - Công nghệ

2023

04

36-39

Tại vùng biển vịnh Đà Nẵng đã xác định được tổng số có 53 loài thuộc 31 chi, 24 họ, 10 bộ, 7 lớp và 4 ngành, trong đó, ngành Chân khớp (Athropoda) có số loài nhiều nhất với 46 loài chiếm tỷ lệ 86,79%, tiếp đến là ngành Hàm tơ (Chaetonatha) có 4 loài chiếm tỷ lệ 7,55%, ngành Thân mềm (Mollusca) có 2 loài chiếm tỷ lệ 3,77% và ngành Giun đốt (Annelida) có 01 loài, chiếm tỷ lệ 1,89%. Về phân bố cho thấy trung bình mỗi trạm xuất hiện hơn 36 loài trong đó nhiều nhất là tại trạm mẫu động vật phù du (ĐVPD) 185 có 53 loài, tiếp đến là trạm ĐVPD 182 có 52 loài; tiếp đến là trạm ĐVPD 188 có số lượng 51 loài, các trạm có số lượng 50 loài là trạm ĐVPD 193 và trạm ĐVPD 204; số lượng loài thấp nhất là tại trạm mẫu ĐVPD 24 có 21 loài, tiếp theo là các trạm ĐVPD 26, ĐVPD 32, ĐVPD 47, ĐVPD 51, ĐVPD 129 có 22 loài, các trạm ĐVPD 7, ĐVPD 13, ĐVPD 31, ĐVPD 40, ĐVPD 41, ĐVPD 50 có 23 loài, còn lại các trạm hầu hết xuất hiện từ 24 - 49 loài. Về tần suất xuất hiện cho thấy loài Evadne nordmani (Loven, 1836) có tần suất xuất hiện cao nhất là 216/250, tiếp đến là loài Conchoecia imbricata (Brady, 1880) có tần suất xuất hiện là 214/250; thấp nhất là loài Sagitta minima (Grassi, 1881) có tần suất xuất hiện là 66/250 và loài Sagitta neglecta (Aida, 1897) có tần suất xuất hiện là 85/250; tần suất xuất hiện trung bình là 172/250. Kết quả tính toán chỉ số đa dạng sinh học cho thấy, khu vực này có mức độ đa dạng sinh học thấp, thành phần loài kém đa dạng, phong phú (H’ = 1,9).

In Da Nang Bay area, a total of 53 species belonging to 31 genera, 24 families, 10 orders, 7 classes and 4 phyla have been identified, of which, Athropoda has the largest number of species with 46 speciesaccounting for 86.79%, followed by Chaetonatha with 4 species accounting for 7.55%, the molluscum phylum (Mollusca) has 2 species accounting for 3.77% and the phylum Annelida has 01 species, accounting for 1.89%. In terms of distribution, on average, each station appears more than 36 species, of which the most is at the ĐVPD 185 sample station with 53 species, followed by the ĐVPD 182 with 52 species; followed by ĐVPD 188 with the number of 51 species, the stations with the number of 50 species are ĐVPD 193 and ĐVPD 204; the lowest number of species is at ĐVPD 24 with 21 species, followed by ĐVPD 26, ĐVPD 32, ĐVPD 47, ĐVPD 51, ĐVPD 129 with 22 species, sample stations ĐVPD 7, ĐVPD 13, ĐVPD 31, ĐVPD 40, ĐVPD 41, ĐVPD 50 with 23 species, the rest of the stations mostly appear from 24-49 species. Evadne nordmani (Loven, 1836) had the highest occurrence frequency of 216/250, followed by Conchoecia imbricata (Brady, 1880) with an occurrence frequency of 214/250; the lowest are Sagitta minima (Grassi, 1881) with an occurrence frequency of 66/250 and Sagitta neglecta (Aida, 1897) with an occurrence frequency of 85/250; The average occurrence frequency was 172/250. The results of the biodiversity index calculation show that this area has a low level of biodiversity, less diverse and rich species composition (H' = 1.9).