Sàng lọc trước sinh là phương pháp quan trọng được áp dụng trong giai đoạn bào thai nhằm phát hiện và can thiệp sớm, đảm bảo sức khỏe cho trẻ sơ sinh. Cách tiếp cận này nhằm nâng cao chất lượng tổng thể của dân số và giảm thiểu những hậu quả nghiêm trọng liên quan đến dị tật bẩm sinh. Sàng lọc trước sinh bao gồm nhiều kỹ thuật khác nhau, bao gồm điều tra dịch tễ học, siêu âm hình ảnh thai nhi, sàng lọc máu mẹ và sàng lọc nước ối bằng kỹ thuật karyotype. Quá trình này bao gồm việc trích xuất nhiễm sắc thể của thai nhi từ các tế bào có trong nước ối, sau đó là nuôi cấy tế bào và điều trị nhược trương. Sau đó, các nhiễm sắc thể này được nhuộm bằng dải G và được kiểm tra dưới kính hiển vi. Kết quả sàng lọc trước sinh trên mẫu 121 bệnh nhân, có độ tuổi trung bình 32 ± 6,69 cho thấy 21% phụ nữ mang thai đã từng sảy thai, 23,1% trước đó đã sinh con dị tật, 8,3% gia đình từng sảy thai. một bệnh di truyền và 5% cha mẹ có biểu hiện bất thường về nhiễm sắc thể. Trong số 51 bệnh nhân được sàng lọc bằng xét nghiệm Double, 26,45% thai nhi có nguy cơ cao bị dị tật bẩm sinh, trong khi xét nghiệm Tripple xác định nguy cơ cao ở 9,09% trong số 19 trường hợp. Phân tích nhiễm sắc thể của 121 trường hợp cho thấy 15,7% thai nhi có bất thường nhiễm sắc thể, trong đó hội chứng Edwards chiếm 5,78%, hội chứng Down chiếm 4,96%, bất thường nhiễm sắc thể chiếm 3,30%, hội chứng Patau chiếm 0,83% và hội chứng Turner chiếm 0,83%. với giá 0,83%. Tuổi trên 35 (r = 0,08 và OR = 0,63), tiền sử sẩy thai (r = 0,05 và OR = 1,38), tiền sử gia đình mắc bệnh di truyền (r = 0,04 và OR = 1,38) và đột biến nhiễm sắc thể của cha mẹ (r = 0,01) và OR = 1,08) đều được phát hiện là có mối tương quan chặt chẽ với các bất thường của thai nhi. Ngoài ra, mối tương quan tích cực đã được quan sát giữa kết quả sàng lọc siêu âm (r = 0,22 và OR = 5,48) và sàng lọc máu (r = 0,14 và OR = 1,22).