
- Kết quả chọn giống cà phê vàng
- Nghiên cứu thiết kế xây dựng phần mềm điều khiển trên máy tính PC để giám sát điều khiển hệ thống nguồn phát tia X đến 160KV
- Sưu tầm nghiên cứu về hiện tượng thơ bút tre trong dòng văn hóa nghệ thuật của Phú Thọ và cả nước
- Nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở
- Nghiên cứu tuyển chọn và đề xuất giải pháp bảo tồn nguồn gen cây nguyên liệu giấy
- Đánh giá tiềm năng nước dưới đất phục vụ khai thác sử dụng và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thị trấn Đắk Hà - tỉnh Kon Tum
- Nghiên cứu thử nghiệm các phương pháp với thiết bị công nghệ và kỹ thuật mới của Địa vật lý có khả năng phát hiện các thân quặng ẩn sâu
- Nhân rộng và phát triển một số mô hình trồng trọt và chăn nuôi cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số xã Lộc Bảohuyện Bảo Lâm theo định hướng xây dựng nông thôn mới
- Nghiên cứu sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng từ nguyên liệu thuỷ sản nước ngọt - Phụ lục
- Hoàn thiện thiết bị công nghệ sản xuất các modul sinh học xử lý nước thải công nghiệp thực phẩm



- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
03/GCN-TTKHCN
Nghiên cứu sự biến đổi tế bào học cổ tử cung liên quan đến nhiễm HPV ở phụ nữ 18-69 tuổi tại thành phố Cần Thơ
Trường Đại học Y dược Cần Thơ
Bộ Y tế
Tỉnh/ Thành phố
BS.CKII. Dương Mỹ Linh
PGS.TS. Trần Ngọc Dung; TS.BS. Bùi Quang Nghĩa; ThS. Nguyễn Thị Thư; ThS. Võ Nhật Ngân Tuyền;
Khoa học y, dược
01/09/2018
01/02/2022
2022
Cần Thơ
155
Human papillomavirus (HPV) là loại virus gây u nhú da ở người, được xác định là nguyên nhân gây ra ung thư cổ tử cung. Sự tiến triển từ khi nhiễm HPV đến các bất thường tiền ung thư cổ tử cung thường rất chậm, có thể kéo dài từ vài năm đến vài chục năm. Một số xét nghiệm với kỹ thuật đơn giản như phết tế bào cổ tử cung và thử nghiệm quan sát cổ tử cung sau bôi acid acetic được đặt ra. Tuy nhiên, tỷ lệ tổn thương cổ tử cung được phát hiện bởi những kỹ thuật này rất thấp. Trần Ngọc Dung (2016) đã thực hiện một nghiên cứu mô tả cắt ngang về tình hình nhiễm HPV và các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ thành phố Cần Thơ ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV rất thấp 6,64%; tỷ lệ PAP bất thường 0,47%; VIA bất thường 8,93%. Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận ở cùng một thời điểm nghiên cứu, mối liên quan giữa nhiễm HPV và tổn thương tế bào biểu mô cổ tử cung chưa rõ ràng. Vấn đề được đặt ra là phụ nữ nhiễm HPV sẽ có sự thay đổi HPV-DNA ở tế bào biểu mô cổ tử cung như thế nào theo thời gian cũng như chúng có liên quan gì trong việc gây biến chuyển ác tính các tế bào biểu mô cổ tử cung? Để trả lời cho câu hỏi đó chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu sự biến đổi tế bào học cổ tử cung liên quan nhiễm HPV ở phụ nữ 18 – 69 tuổi tại thành phố Cần Thơ” với 2 mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Xác định tỷ lệ biến đổi HPV-DNA, biến đổi tế bào học cổ tử cung và các mối liên quan giữa biến đổi HPV với biến đổi tế bào học cổ tử cung ở phụ nữ 18 - 69 tuổi nhiễm HPV thành phố Cần Thơ từ năm 2013 đến năm 2020.
2. Xác định một số yếu tố nguy cơ biến đổi HPV-DNA và biến đổi tế bào học cổ tử cung ở phụ nữ 18 - 69 tuổi nhiễm HPV thành phố Cần Thơ.
HPV; Virus; Ung thư cổ tử cung; Tế bào biểu mô
Trung tâm Thông tin KH&CN Cần Thơ
CTO-2022-03