- Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy ép chấn tôn 1200T dùng trong đóng tàu thuỷ cỡ lớn
- Chế tạo lõi neo cáp bê tông dự ứng lực thay thế lõi neo nhập ngoại-Nghiên cứu chế tạo nhiệt luyện và xử lý khuyết tật trong lớp thâm
- Nghiên cứu sử dụng than sinh học từ vỏ cà phê và trấu để hỗ trợ cho canh tác một số cây rau và cây công nghiệp
- Quan trắc môi trường phục vụ nuôi tôm hùm và tôm nước lợ các tỉnh Nam Trung Bộ
- Nghiên cứu công nghệ chế tạo đúc quốc hãm gang phốt pho
- Điều tra xây dựng tiêu chí xác định dân tộc đặc biệt khó khăn
- Đánh giá tác động của Hiệp định CPTPP và EVFTA đến lĩnh vực quan hệ lao động ở Việt Nam đến năm 2025
- Nghiên cứu thiết kế và chế tạo một số thiết bị chuyên dùng phục vụ sửa chữa nâng cấp cầu bê tông ở Việt Nam - Hồ sơ thiết kế kỹ thuật xe chuyên dùng phục vụ kiểm tra bề mặt dưới cầu
- Khảo sát và đánh giá tài liệu truyền thông dân số phát hành thời kỳ 1993-1997
- Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng gạch không nung từ bùn đỏ theo công nghệ chưng áp
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
Xây dựng và phát triển mô hình tôm - lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ tỉnh Hậu Giang
Sở Nông nghiệp và PTNT Hậu Giang
Tỉnh/ Thành phố
Ks. Nguyễn Hoàng Tâm
Ths.Lê Kim Ngọc, Ks.Phạm Công Lịnh, Ks.Trần Văn Đẹp, Ks.Sơn Ngọc Huyền, Ths.Hứa Huy Bình, Ths.Nguyễn Thị Thùy Lam, Ks.Nguyễn Thị Cẩm Ngân, Ks.Lê Hoàng Anh, CN.Nhan Thị Bảo Xuyên, CN.Dương Kim Sơn, Ts.Lê Hồng Việt
Thuỷ sản
01/05/2017
01/05/2019
2020
Hậu Giang
110
- 2019 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Tôm sú (PL16-PL20) được thuần hóa độ mặn xuống 3‰ và thả nuôi trong mô hình quảng canh (QC) với mật độ 2 con/m2, không cho ăn bổ sung, và mô hình quảng canh cải tiến (QCCT) thả với mật độ 4 con/m2, có cho ăn bổ sung. Kết quả sau 5 tháng nuôi trong điều kiện độ mặn thấp (dưới 4 ‰) và thời tiết nắng nóng, nhiệt độ nước trong ruộng cao (30,2 - 34,1oC), năng suất tôm đạt 104,0 - 128,7 kg/ha/vụ (mô hình QC) và 228,9 - 241,2 kg/ha/vụ (mô hình QCCT). Mặc dù, ở mô hình QC lợi nhuận bình quân (13,3 triệu đồng/ha) đạt thấp hơn mô hình QCCT (20,7 triệu đồng/ha) nhưng tỷ suất lợi nhuận (1,1) đạt cao hơn so với mô hình QCCT (0,7). Năng suất lúa vụ Đông Xuân đạt từ 4,5 - 6,5 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ 12,5 - 23,4 triệu đồng/ha.
Như vậy có thể thấy, mô hình tôm sú - lúa luân canh phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô ở ngoài đê bao ngăn mặn xã Lương Nghĩa. Mô hình đã tận dụng được nguồn nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý giá cùng với đất đai đã giúp người dân nâng cao thu nhập gấp 2,0
- 2,1 lần so với trước đây chỉ trồng 1 vụ lúa/năm, thời gian còn lại bỏ đất trống. Doanh thu ở mô hình QC đạt 53,0 triệu đồng/ha và ở mô hình QCCT đạt 92,3 triệu đồng/ha, trong đó vụ nuôi tôm đóng góp tương ứng 48,1% và 55,9% doanh thu của toàn hệ thống tôm - lúa. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu
quả kỹ thuật cũng như hiệu quả về kinh tế của mô hình cần đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật theo quy trình khuyến cáo, thường xuyên theo dõi và quản lý tốt các yếu tố môi trường, dịch hại.
Tôm, lúa, đất phèn, nhiễm mặn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
hgi-2020-004