- Ứng dụng công nghệ xây dựng mô hình hồ chứa nước trên núi đá vôi
- Nghiên cứu tổng hợp và sử dụng một số chất có nguồn gốc tự nhiên làm tăng hiệu lực sinh học của thuốc trừ sâu BT
- Nghiên cứu đánh giá vai trò của điều tra hộ gia đình đối với việc xác định tỷ lệ nghèo ở Việt Nam
- Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị hoá khí liên tục từ phụ phế phẩm nông nghiệp
- Nguyễn An Ninh nhà tư tưởng tiêu biểu đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ
- Điều tra đánh giá nguồn lợi cá Dìa (Siganus guttatua Bloch 1787) và xây dựng Hướng dẫn kỹ thuật ương cá Dìa từ cỡ hạt đưa lên cá giống trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
- Nghiên cứu ứng dụng các phần mềm chuyên dụng mô phỏng 3D quá trình hoạt động của máy tiện vạn năng phục vụ công tác đào tạo tại các trường cao đẳng công nghiệp
- Nghiên cứu đánh giá kết quả cuộc vận động Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới giai đoạn 2018-2022
- Nuôi tôm sú (Penaaeus monodon) quảng canh cải tiến kết hợp với cá nâu (Scatophagus argus) trong vuông 02 giai đoạn sử dụng chế phẩm sinh học tại huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau
- Đánh giá các điều kiện thuận lợi và hậu quả tai nạn giao thông tại khu vực Định Quán – Tân Phú năm 2009
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ
Xây dựng và phát triển mô hình tôm - lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ tỉnh Hậu Giang
Sở Nông nghiệp và PTNT Hậu Giang
Tỉnh/ Thành phố
Ks. Nguyễn Hoàng Tâm
Ths.Lê Kim Ngọc, Ks.Phạm Công Lịnh, Ks.Trần Văn Đẹp, Ks.Sơn Ngọc Huyền, Ths.Hứa Huy Bình, Ths.Nguyễn Thị Thùy Lam, Ks.Nguyễn Thị Cẩm Ngân, Ks.Lê Hoàng Anh, CN.Nhan Thị Bảo Xuyên, CN.Dương Kim Sơn, Ts.Lê Hồng Việt
Thuỷ sản
01/05/2017
01/05/2019
2020
Hậu Giang
110
- 2019 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Tôm sú (PL16-PL20) được thuần hóa độ mặn xuống 3‰ và thả nuôi trong mô hình quảng canh (QC) với mật độ 2 con/m2, không cho ăn bổ sung, và mô hình quảng canh cải tiến (QCCT) thả với mật độ 4 con/m2, có cho ăn bổ sung. Kết quả sau 5 tháng nuôi trong điều kiện độ mặn thấp (dưới 4 ‰) và thời tiết nắng nóng, nhiệt độ nước trong ruộng cao (30,2 - 34,1oC), năng suất tôm đạt 104,0 - 128,7 kg/ha/vụ (mô hình QC) và 228,9 - 241,2 kg/ha/vụ (mô hình QCCT). Mặc dù, ở mô hình QC lợi nhuận bình quân (13,3 triệu đồng/ha) đạt thấp hơn mô hình QCCT (20,7 triệu đồng/ha) nhưng tỷ suất lợi nhuận (1,1) đạt cao hơn so với mô hình QCCT (0,7). Năng suất lúa vụ Đông Xuân đạt từ 4,5 - 6,5 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ 12,5 - 23,4 triệu đồng/ha.
Như vậy có thể thấy, mô hình tôm sú - lúa luân canh phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô ở ngoài đê bao ngăn mặn xã Lương Nghĩa. Mô hình đã tận dụng được nguồn nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý giá cùng với đất đai đã giúp người dân nâng cao thu nhập gấp 2,0
- 2,1 lần so với trước đây chỉ trồng 1 vụ lúa/năm, thời gian còn lại bỏ đất trống. Doanh thu ở mô hình QC đạt 53,0 triệu đồng/ha và ở mô hình QCCT đạt 92,3 triệu đồng/ha, trong đó vụ nuôi tôm đóng góp tương ứng 48,1% và 55,9% doanh thu của toàn hệ thống tôm - lúa. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu
quả kỹ thuật cũng như hiệu quả về kinh tế của mô hình cần đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật theo quy trình khuyến cáo, thường xuyên theo dõi và quản lý tốt các yếu tố môi trường, dịch hại.
Tôm, lúa, đất phèn, nhiễm mặn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
hgi-2020-004