
- Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ hạn chế xâm nhập mặn đối với các tầng chứa nước ven biển miền Trung trong bối cảnh biến đổi khí hậu; ứng dụng thí điểm cho công trình cụ thể trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
- Nghiên cứu xây dựng mô hình trồng thử nghiệm cây vừng đen (mè đen) và chế biến đóng chai thành các sản phẩm từ hạt vừng đen thích ứng với biến đổi khí hậu
- Đánh giá hiệu quả kỹ thuật lấy huyết khối động mạch não trực tiếp dưới máy Xquang số hóa xóa nền (DSA) ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị
- Nghiên cứu máy Vecto hỗ trợ hiệu năng cao cho bài toán xử lý dữ liệu lớn
- Nghiên cứu hoàn thiện quy trình kỹ thuật và sản xuất cây hoa đào phai tại thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình
- Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu ngành nông lâm nghiệp tỉnh Hà Giang
- Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống quan trắc lưu lượng dòng chảy và lượng mưa hỗ trợ điều tiết an toàn hệ thống hồ chứa nước sông Đà
- Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính chống ung thư của 3 loài thuộc chi fissistigma: lãnh công bắc (F tonkinense) lãnh công ba vì (F balansae) lãnh công lông (F bicolor) ở Việt Nam
- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng dịch vụ tài chính tại Việt Nam
- Nghiên cứu vi phạm đối xứng CP và vật lý meson B trong thí nghiệm LHCb trên máy gia tốc LHC



- Ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ
21/KQNC- TTKHCN
Dạy nghề và chữ viết Khmer cho người dân tộc Khmer tại huyện Cờ Đỏ thành phố Cần Thơ
Ban Dân tộc thành phố Cần Thơ
UBND TP. Cần Thơ
Tỉnh/ Thành phố
ThS. Tào Việt Thắng
TS. Châu Tấn Phát; CN. Dương An; CN. Phan Thị Hồng Nhung 4. CN. Lương Văn Trừ; CN. Lê Thị Ngọc Thu; CN. Đào Hương; CN. Trần Thị Hiền; CN. Nguyễn Hoàng Hải; CN. Võ Kim Ngân
Khoa học xã hội
01/2018
12/2019
16/10/2019
21/KQNC- TTKHCN
13/12/2019
Trung tâm thông tin Khoa học và Công nghệ tp Cần Thơ
Khmer; Chữ viết; Giáo dục
Ứng dụng
Dự án KH&CN
Như vậy, việc tổ chức đào tạo nghề cho người dân tộc Khmer địa phương không những đã tạo điều kiện có thêm nghề mới để có cơ hội đa dạng hóa nguồn sinh kế, tăng thêm thu nhập mà còn giúp nâng cao năng lực sản xuất cho Tổ hợp tác đan lục bình, tăng thêm số lượng thợ có tay nghề cho làng nghề truyền thống, đáp ứng ngày càng cao cho sản xuất hàng hóa. Sản phẩm của Tổ hợp tác ngày càng phong phú và đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng, từ các loại túi sách thời trang đến đồ trang trí nội thất và đồ dùng gia đình với trên 15 loại sản phẩm. Năng lực sản xuất tại thời điểm tháng 9/2019 là trên 120.000 sản phẩm các loại/tháng. Từ đó những hiệu quả đó đến nay Tổ Hợp tác đan lục bình đã phát triển thành Hợp Tác xã. Đồng thời, với xu hướng phát triển của thị trường như trên cho thấy nhu cầu mở thêm các lớp dạy nghề, nhất là lớp nâng cao, hướng dẫn kỹ thuật để tạo ra các sản phẩm mang tính thẩm mỹ và yêu cầu chất lượng cao hơn, nhằm một mặt tạo ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao, đồng thời cũng là cơ sở để nâng cao mức đơn giá tiền công và thu nhập của người lao động.
- Đối với lớp dạy nghề trồng lúa năng suất cao, các học viên đã nắm được các nội dung ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới để đưa vào sản xuất, đặc biệt là so với kiểu canh tác truyền thống giảm được chi phí đầu tư từ giống, thuốc nhưng vẫn đảm bảo được năng suất sau khi thu hoạch (so sánh trên cùng một diện tích, cùng một vị trí thực hành). Minh chứng cụ thể về hiệu quả kinh tế là với Lớp 1, thực hành vụ Đông-Xuân 2018-2019 đạt 130 tấn/ha, cao hơn so với chủ đất thu hoạch 109 tấn/ha vụ Đông- Xuân 2017-2018; còn Lớp 2, thực hành trên vụ Hè - Thu 2018-2019 đạt 100 tấn/ha, cao hơn so với chủ đất thu hoạch 87 tấn/ha vụ Hè-Thu 2017-2018. - Đối với lớp dạy nghề đan lục bình đã tạo thêm mô hình sinh kế cho 120 lao động (ngoài trồng trọt, chăn nuôi tại nhà), qua đó nâng cao thu nhập cho hộ dân tộc Khmer. Thu nhập thực tế của các xã viên (trong đó có 120 học viên hoàn thành khóa học và được tham gia ngay với Tổ hợp tác) so với năm 2017 (năm nghiên cứu xây dựng Dự án khoa học), thu nhập bình quân từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng thì đến tháng 9/2019 không có người thu nhập dưới 3,2 triệu đồng/tháng (chỉ tính với những người lao động trong thời gian nhàn rỗi, không tính những người xem đây là nghề thu nhập chính).