• Ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ

21/KQNC- TTKHCN

Dạy nghề và chữ viết Khmer cho người dân tộc Khmer tại huyện Cờ Đỏ thành phố Cần Thơ

Ban Dân tộc thành phố Cần Thơ

UBND TP. Cần Thơ

Tỉnh/ Thành phố

ThS. Tào Việt Thắng

TS. Châu Tấn Phát; CN. Dương An; CN. Phan Thị Hồng Nhung 4. CN. Lương Văn Trừ; CN. Lê Thị Ngọc Thu; CN. Đào Hương; CN. Trần Thị Hiền; CN. Nguyễn Hoàng Hải; CN. Võ Kim Ngân

Khoa học xã hội

01/2018

12/2019

16/10/2019

21/KQNC- TTKHCN

13/12/2019

Trung tâm thông tin Khoa học và Công nghệ tp Cần Thơ

- Trên cơ sở kết quả của Dự án là bộ Giáo trình dạy chữ Khmer đã bàn giao ứng dụng cho Trường Phổ thông Dân tộc nội trú thành phố, đến nay trường đã áp dụng nghiên cứu, giảng dạy tại trường và mở thêm các khóa ngắn hạn như học hè, học nâng cao kiến thức. Như vậy Dự án đã góp phần thiết thực cho việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer về tiếng nói, chữ viết, đồng thời tạo được tinh thần hiếu học, được người dân đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao. - Với nội dung đào tạo nghề Dự án đã chuyển giao kết quả cho Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên huyện Cờ Đỏ tiếp tục thực hiện mở các lớp đào tạo nghề cho bà con dân tộc nhằm nâng cao nâng cao năng lực sản xuất, thợ có tay nghề cao cho địa phương.
CTO-KQ2019-21/KQNC
Qua đào tạo nghề, không những đã tạo điều kiện cho người dân Khmer ở Cờ Đỏ có thêm nghề mới để có cơ hội đa dạng hóa nguồn sinh kế, tạo thêm thu nhập mà còn giúp nâng cao năng lực sản xuất cho địa phương, tăng thêm số lượng thợ có tay nghề cho làng nghề đan lục bình truyền thống của người dân tộc Khmer tại huyện Cờ Đỏ, đáp ứng ngày càng kịp thời cho sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, Dự án còn giúp cộng đồng người dân tộc Khmer trong vùng dự án nâng cao kỷ thuật, kiến thức, đảy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học vào việc canh tác lúa, giúp tiết kiệm chi phí (giống, phân bón, thuốc trừ sâu, bơm nước,…) từng bước chuyển dịch dần sang canh tác hàng hóa nông sản sạch, có giá trị kinh tế góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống.

Khmer; Chữ viết; Giáo dục

Ứng dụng

Dự án KH&CN

Như vậy, việc tổ chức đào tạo nghề cho người dân tộc Khmer địa phương không những đã tạo điều kiện có thêm nghề mới để có cơ hội đa dạng hóa nguồn sinh kế, tăng thêm thu nhập mà còn giúp nâng cao năng lực sản xuất cho Tổ hợp tác đan lục bình, tăng thêm số lượng thợ có tay nghề cho làng nghề truyền thống, đáp ứng ngày càng cao cho sản xuất hàng hóa. Sản phẩm của Tổ hợp tác ngày càng phong phú và đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng, từ các loại túi sách thời trang đến đồ trang trí nội thất và đồ dùng gia đình với trên 15 loại sản phẩm. Năng lực sản xuất tại thời điểm tháng 9/2019 là trên 120.000 sản phẩm các loại/tháng. Từ đó những hiệu quả đó đến nay Tổ Hợp tác đan lục bình đã phát triển thành Hợp Tác xã. Đồng thời, với xu hướng phát triển của thị trường như trên cho thấy nhu cầu mở thêm các lớp dạy nghề, nhất là lớp nâng cao, hướng dẫn kỹ thuật để tạo ra các sản phẩm mang tính thẩm mỹ và yêu cầu chất lượng cao hơn, nhằm một mặt tạo ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao, đồng thời cũng là cơ sở để nâng cao mức đơn giá tiền công và thu nhập của người lao động.

- Đối với lớp dạy nghề trồng lúa năng suất cao, các học viên đã nắm được các nội dung ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới để đưa vào sản xuất, đặc biệt là so với kiểu canh tác truyền thống giảm được chi phí đầu tư từ giống, thuốc nhưng vẫn đảm bảo được năng suất sau khi thu hoạch (so sánh trên cùng một diện tích, cùng một vị trí thực hành). Minh chứng cụ thể về hiệu quả kinh tế là với Lớp 1, thực hành vụ Đông-Xuân 2018-2019 đạt 130 tấn/ha, cao hơn so với chủ đất thu hoạch 109 tấn/ha vụ Đông- Xuân 2017-2018; còn Lớp 2, thực hành trên vụ Hè - Thu 2018-2019 đạt 100 tấn/ha, cao hơn so với chủ đất thu hoạch 87 tấn/ha vụ Hè-Thu 2017-2018. - Đối với lớp dạy nghề đan lục bình đã tạo thêm mô hình sinh kế cho 120 lao động (ngoài trồng trọt, chăn nuôi tại nhà), qua đó nâng cao thu nhập cho hộ dân tộc Khmer. Thu nhập thực tế của các xã viên (trong đó có 120 học viên hoàn thành khóa học và được tham gia ngay với Tổ hợp tác) so với năm 2017 (năm nghiên cứu xây dựng Dự án khoa học), thu nhập bình quân từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng thì đến tháng 9/2019 không có người thu nhập dưới 3,2 triệu đồng/tháng (chỉ tính với những người lao động trong thời gian nhàn rỗi, không tính những người xem đây là nghề thu nhập chính).